Nội dung text 1722624596-1722305141-5 Luật sư M.doc
LUẬN CỨ BẢO VỆ (Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trong vụ án Hôn nhân gia đình) Kính thưa : - Hội Đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh N. - Thưa vị Đại diện Viện kiểm sát . - Thưa luật sư đồng nghiệp. Tôi là Luật sư M, thuộc Công ty luật N, Đoàn luật sư thành phố H. Sau Khi nghiên cứu toàn bộ hồ sơ có liên quan và qua tranh luận tại phiên Tòa, tôi xin đưa ra quan điểm bảo vệ như sau: Ngày 16/11/2007, bà N.T.O và ông T.K.C đã đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 39, quyển số 01/2007 tại UBND xã N, huyện N, tỉnh N. Hai anh chị có một con chung là bé T.M.Q, sinh ngày 29/09/2008 căn cứ giấy khai sinh do anh C đăng ký tại xã V, huyện N, tỉnh N ngày 22/10/2008. Sau một thời gian chung sống hai người xảy ra mâu thuẫn và xung đột trầm trọng: Mặc dù, cả hai vợ chồng C – O đã được tổ Hòa giải xã V tiến hành hòa giải vào ngày 26/02/2011. Tuy nhiên, việc hòa giải có kết quả không được như mong đợi, hai vợ chồng O – C vẫn nảy sinh mâu thuẫn không thể giải quyết được. Ngày 04/03/2011, bà O làm đơn xin ly hôn với chồng là Ông C gửi Tòa án nhân dân huyện N yêu cầu giải quyết vụ việc với lý do Ông C thường ghen tuông vô cớ, đánh đập bà O nhiều lần. Vì vậy, bà O yêu cầu Tòa án được ly hôn, nuôi con chung là T.M.Q yêu cầu cấp dưỡng, chia tài sản chung của hai vợ chồng là căn nhà cấp 4, công trình phụ và vật dụng trong nhà, khoản nợ không yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 (nay là Điều 56 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014) và mục 8 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP thì Toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 80 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 (nay là Điều 92 BLTTDS năm 2015) thì giấy chứng nhận kết hôn số: 39, quyển số 01/2007 tại UBND xã N vào ngày 16/1/2007 giữa Bà O và Ông C là sự kiện pháp lý hợp pháp, không cần phải chứng minh.
Vì vậy, quan hệ hôn nhân của Bà O và Ông C là hợp pháp. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi: Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó. Biên bản hòa giải việc gia đình do tổ hòa giải xã V tiến hành hòa giải vào ngày 26/02/2011 giữa Bà O và Ông C. Đã có thời gian dài sống ly thân. Ông C và Bà O đã tranh cãi và dùng bạo lực trong đời sống hôn nhân ở mức độ thường xuyên và đã được gia đình, hàng xóm và chính quyền địa phương can ngăn, khuyên giải. Tuy nhiên, cả phía Ông C và Bà O vẫn chưa giải quyết được mâu thuẫn gia đình. Từ những yếu tố trên, kính xin Hội đồng xét xử chấp thuận cho thân chủ tôi là chị Oanh được ly hôn theo đúng quy định pháp luật. Về quyền nuôi con và tài sản: Căn cứ khoản 1 Điều 92 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 (nay là Điều 81 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014) quy định về việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn: Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Chị O hiện tại đang có công ăn việc làm ổn định, thu nhập có thể bảo đảm về chăm lo cho con. Có điều kiện về cả vật chất và thời gian để lo cho con. Bị đơn hiện tại không có công ăn việc làm ổn định, thường xuyên dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề phát sinh trong gia đình. Nếu giao cháu bé cho bị đơn có thể không bảo đảm về vấn đề chăm lo quyền lợi cho cháu, quan trọng nhất là cháu có thể bị lệch lạc về tâm lý vì hành vi bạo lực của bị đơn. Từ các nhận định trên, tôi kính xin Hội đồng xét xử giao quyền nuôi con cho thân chủ tôi là chị O vì việc giao cho chi O nuôi là việc làm đúng pháp luật, đồng thời là phương án tốt nhất cho tương lai của cháu. Yêu cầu HDXX tuyên bị đơn có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu Q tới khi cháu 18 tuổi.
Về tải sản chung: Theo biên bản định giá tài sản của TAND huyện N ngày 9/6/2011 tại phụ lục số 24 thì tổng giá trị tài sản của chị O và anh C là 243.693.000đ. Chị O có ý kiến để lại cho ông C sở hữu và sử dụng nhưng anh C phải trả phần chênh lệch là ½ giá trị tài sản cho chị O theo quy định của pháp luật tại điều 95 khoản 2 điểm a Luật HNGĐ (nay là Điều 59 Luật Hôn nhân & Gia đình 2014). Như vậy, yêu cầu Hội đồng xét xử tuyên: 1. Giải quyết cho bà O và ông C thuận tình ly hôn. 2. Giao quyền nuôi bé Q cho chị O và đề nghị ông C cấp dưỡng cho đến khi bé tròn 18 tuổi. 3. Tuyên bị đơn chi trả phần chênh lệch trong phân chia tài sản bằng ½ giá trị tài sản cho chị O. Xin cảm ơn Hội đồng xét xử đã quan tâm lắng nghe và theo dõi./.