Nội dung text 1726030235-31. Tội đưa, môi giới và nhận hối lộ- Ls PTH.doc
1 QUAN ĐIỂM PHÁP LÝ Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông N.V.K (tức nhà báo H.K) trong vụ án “đưa, môi giới và nhận hối lộ” xảy ra tại Đội Cảnh sát Giao thông Công an quận B Kính thưa Hội đồng xét xử, Thưa đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trước Tòa Thưa các luật sư đồng nghiệp. Văn phòng luật sư P.T.H (Đoàn Luật sư TP. H) xin gửi đến quý Lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và TP H lời chào trân trọng. Sau khi kết thúc điều tra vụ án “đưa, môi giới và nhận hối lộ” xảy ra tại Đội Cảnh sát giao thông (CSGT) Công an quận B, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H (VKSTP) đã ban hành bản Cáo trạng số 236/CT-P1 ngày 8/6/2012, quyết định truy tố ông N.V.K (tức nhà báo H.K) về tội “đưa hối lộ” theo điểm (đ) khoản 2 điều 289 Bộ luật Hình sự năm 1999 (nay là Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015). Trên cơ sở quá trình tham gia tố tụng ngay từ khi bắt tạm giam bị can, tham dự các buổi làm việc với ông N.V.K tại CQĐT, nghe trực tiếp các băng ghi âm được thu giữ trong quá trình điều tra, tham khảo toàn bộ hồ sơ vụ án, tiếp theo bản Kiến nghị luật sư số 01 ngày 12/01/2012, bản Kiến nghị luật sư số 02 ngày 20/3/2012, nay tôi xin trình bày quan điểm pháp lý chính thức, kính đề nghị Lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng cân nhắc và xem xét lại toàn bộ bản chất vụ án và việc quyết định truy tố đối với ông N.V.K như sau: 1. Bối cảnh xảy ra vụ án và căn cứ quyết định khởi tố của CQĐT: 1.1. Quá trình tiếp nhận tin báo tội phạm và căn cứ khởi tố vụ án: 1.1.1.- Về tiếp nhận và xử lý thông tin từ bài báo T ra ngày 5/7/2011: Hồ sơ vụ án thể hiện, vào lúc 10h32 ngày 5/7/2011, ngay sau khi Báo T đăng bài “Đồng tiền xóa sạch hồ sơ”, đích thân ông P.H.K1 là Trưởng Công an quận B đã triệu tập ngay cuộc họp và lập Biên bản làm việc, yêu cầu Đội CSGT và các cá nhân có liên quan yêu cầu báo cáo, kiểm điểm về những nội dung báo nêu và “báo cáo nhanh về Ban Giám đốc, PX13 và PV 11” (BL 23). Bản Báo cáo số 549/BC-CAQ (CTHC) ngày 5/7/2011 của Công an quận B gửi Ban Giám đốc Công an TP H đã mô tả sự kiện Báo T số 178/2011 (6575) phát hành ngày 5/7/2011 đã phản ánh ông H.M.Đ và L.H.L, cán bộ Đội CSGT Công an quận B nhận hối lộ khi làm nhiệm vụ. Trong báo cáo này, Công an quận cho rằng liên quan nội dung Báo T phản ảnh, ông H.M.Đ không thừa nhận có nhận hối lộ, nên đã chỉ đạo cho T5 tra Công an quận tiến hành xác minh làm rõ và kết luận (BL 207).
2 Trên cơ sở đó, vào ngày 7/7/2011, Công an quận B đã ra quyết định số 372/QĐ-CAQ (TTra) về việc lập hồ sơ giải quyết Báo phản ảnh, trong đó giao nhiệm vụ cho Thượng úy T.G.L là cán bộ T5 tra “được lập hồ sơ xác minh kết luận nội dung Báo T số 178/2011 (6575) phát hành ngày 5/7/2011, tại trang 5 mục thời sự có bài “Đồng tiền xóa sạch hồ sơ” phản ảnh đồng chí H.M.Đ và L.H.L, cán bộ Đội CSGT Công an quận B có biểu hiện vòi vĩnh tiền hối lộ khi thực hiện nhiệm vụ” (BL 19). Cùng ngày 7/7/2011, xuất phát từ Luật khiếu nại, tố cáo và Thông tư số 63/2010/TT-BCA (V24) ngày 29/12/2010 của Bộ Công an hướng dẫn, quản lý và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong Công an nhân dân, Công an quận B đã có Quyết định số 373/QD9XM- CQQ (CTHC) với nội dung tiến hành xác minh làm rõ nội dung bài báo T nêu trên và thành lập Tổ T5 tra gồm ông Đ.V.V và T.G.L. Tổ T5 tra có nhiệm vụ: “Xây dựng kế hoạch trình đồng chí Trưởng Công an quận phê duyệt để tiến hành xác minh và kết luận nội dung tố cáo theo quy định tại điều 1 quyết định này; Tổ T5 tra thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định pháp luật về tố cáo. Thời hạn xác minh 60 ngày kể từ ngày 7/7/2011” (BL 20). Thực hiện các quyết định nói trên, Tổ T5 tra đã xây dựng Kế hoạch thanh tra xác minh, được Trưởng Công an quận phê duyệt đồng ý, với các bước tiến hành cụ thể như sau: - Làm việc với BCH Đội CSGT về nội dung Báo phản ảnh (có báo cáo và photo toàn bộ hồ sơ). - Mời và tiếp xúc các bên liên quan đến vụ tai nạn ngày 23/6/2011 để làm rõ nội dung Báo phản ảnh. - Yêu cầu đồng chí Đ và L viết tường trình và bảng kiểm điểm để làm rõ nội dung - Xác minh tại Kho 710 T.C (BL 21). Sau khi công bố quyết định thanh tra nói trên vào ngày 8/7/2011, các cá nhân là đối tượng bị Báo phản ảnh “thống nhất không có ý kiến gì khác” (BL 22). Ông L.T.V1 là Phó Đội trưởng Đội CSGT Công an quận B đã có báo cáo vào ngày 9/7/2011, trong đó ghi nhận việc ông H.M.Đ có trình bày là “bị nhà báo H.K gài mà không biết” (BL 200), đồng thời có báo cáo chi tiết các tình tiết, sự kiện liên quan bài Báo T đã nêu (BL 203). Ngày 9/7/2011, H.M.Đ nộp số tiền 15 triệu đồng cùng các giấy tờ liên quan đến chiếc xe ..F6-..35 cho Đội CSGT Công an quận B (BL 270). 1.1.2.- Về việc tiếp nhận và xử lý thông tin từ bài báo T ra ngày 10/7/2011: Trong khi việc tiến hành thanh tra, xác minh đang được Ban chỉ huy Công an quận B triển khai, do ngày 10/7/2011, Báo T tiếp tục đăng bài “CSGT giải cứu xe đua trái phép”, nên ngay trong ngày 10/7/2011, Lãnh đạo Công an quận B đã có Báo cáo số 364/BC-CAQ (CTHC) gửi Ban Giám đốc Công an TP H về việc sai phạm của cán bộ CSGT để Báo T phản ảnh. Mặc dù trong Báo cáo này, Công an quận B đã nhầm lẫn nhân vật tên H5 (thực chất là T.T.H4) với phóng viên H.K, nhưng đã phản ánh sự thật là sau khi “ông H1 đưa 15 triệu đồng cho ông H5, trong lúc ông H5 đưa tiền cho đồng chí Đ kiểm tra thì ông H1 đã ra ngoài chụp ảnh sau đó đưa lên Báo T ngày 10/7/2011 tại trang 4”. Công an quận B đã nhận định: “Với loạt bài viết trên, Công an quận làm việc với đồng chí Đ và đồng chí Đ đã thừa nhận sai phạm của mình có nhận tiền, làm sai quy trình công tác như Báo T đã đăng ngày 5/7/2011 và ngày 10/7/2011, Công an quận sẽ tiến hành kiểm điểm đồng chí Đ, làm rõ trách nhiệm của các cá nhân có liên quan và đề xuất xử lý để báo cáo về Công an TP theo quy định”. Trong Báo cáo này, Công an quận cũng cho rằng các nhà báo đã cố ý sặp đặt để ghi âm, chụp hình việc sai phạm của ông Đ, tổ chức đưa tiền hối lộ và khống
3 chế, mô tả một số sai phạm của phóng viên H.K trước đây và đề nghị Ban Giám đốc Công an TP có hướng chỉ đạo xử lý (BL 208-209). Vào ngày 11/7/2011, Trưởng Công an quận B đã ra Quyết định số 48/QĐ-CAQ (CTHC) về việc tạm đình chỉ công tác Thượng úy H.M.Đ trong thời hạn 01 tháng “Đề xác minh làm rõ việc Báo T đăng tải ngày 5/7/2011 “Đồng tiền xóa sạch hồ sơ” phản ảnh đồng chí H.M.Đ có biểu hiện vòi vĩnh tiền hối lộ trong khi thi hành nhiệm vụ; ngày 10/7/2011 đăng tải nội dung “CSGT giải cứu xe đua trái phép” và hình ảnh đồng chí Đ nhận tiền hối lộ” (BL 24). Sau đó, với một động thái quyết liệt, các đối tượng là bảo vệ Kho tạm giữ phương tiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ là V.K.H1 và V.V.T1 đã bị Công an quận cắt hợp đồng lao động do hành vi tự ý củng H.M.Đ trả xe ..F6-..35 để nhận tiền và bị Báo T đăng (BL 197). 1.2. Đánh giá về quá trình giải quyết xử lý thông tin của Báo T và căn cứ dẫn đến quyết định khởi tố vụ án hình sự “đưa hối lộ, môi giới hối lộ và nhận hối lộ”: 1.2.1.- Về quá trình giải quyết, xử lý thông tin từ Báo T của Công an quận B: Với diễn biến quá trình và thực tế hồ sơ vụ án thể hiện nêu trên, có thể khẳng định, ngay sau khi Báo T đăng hai bài báo của tác giả là Nhà báo H.K, Công an quận B đã tiến hành lập Tổ T5 tra xác minh và kết luận, đồng thời báo cáo lên Ban Giám đốc Công an TP H về kết quả xác minh nội dung Báo phản ảnh. Việc một số cán bộ Đội CSGT Công an quận B xử lý vụ việc liên quan tai nạn xe đầu kéo và xe du lịch nói trên đã vi phạm “Quy trình điều tra giải quyết tai nạn giao thông đường bộ” ban hành kèm theo Quyết định số 18/2007/QĐ-BCA (C11) ngày 5/01/2007 của Bộ Công an, trong đó tại khoản 1 điều 2 nêu rõ: “Nghiêm cấm cán bộ, chiến sĩ lợi dụng nhiệm vụ được giao để sách nhiễu, gây phiền hà hoặc có hành vi tiêu cực khác xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (BL 288). Trong Báo cáo số 593/BC-CAQ (CTHC) ngày 18/7/2011, Công an quận B đã mô tả chi tiết kết quả xác minh nội dung hai bài báo đã đăng trên Báo T và nêu rõ: “Bản thân đồng chí Đ thừa nhận đã nhận từ ông H5 tất cả là 18.000.000 đồng (lần 3 triệu, lần 15 triệu), đã đưa cho ông V.H.H2 bảo vệ kho vật chứng 10 triệu đồng để lo vu oan xe mô tô biển số ..F6-..35. Sau khi Báo T phản ảnh, ông Kiên H1 đã đưa lại cho đ/c Đ. Hiện đ/c Đ đã nộp lại 15 triệu đồng, còn lại 3 triệu sẽ nộp lại khi có yêu cầu...”. Ban chỉ huy Công an quận B đã kết luận bước đầu với nội dung: “- Ngày 5/7/2011, Báo T số 178/2011 (6575) phát hành, tại trang 5 mục thời sự có bài “Đồng tiền xóa sạch hồ sơ”..., từ đó kết luận: Đ/c H.M.Đ, đ/c L.H.L vi phạm quy trình công tác, trả xe và bằng lái xe khi chưa có ý kiến của lãnh đạo (biên bản trả xe ngày 28/62011 chỉ nhằm hợp thức hóa sau khi có phê duyệt trả xe của lãnh đạo); đồng chí H.M.Đ nhận tiền khi làm nhiệm vụ. - Ngày 10/7/2011 Báo T số 183/2011 (6580) phát hành, tại trang 4 thời sự có bài “CSGT giải cứu xe đua trái phép” phản ánh đồng chí H.M.Đ, cán bộ Đội CSGT Công an quận B nhận tiền để trả xe cho người vi phạm là đúng... Qua nội dung và hình ảnh hai kỳ Báo T đăng tải, ngày 11/7/2011, Trưởng Công an quận B đã quyết định tạm đình chỉ công tác 01 tháng đối với đ/c H.M.Đ và đ/c L.H.L để xác minh, làm
4 rõ xử lý theo quy định; đồng thời ngày 13/7/2011, Trưởng Công an quận đã cắt hợp đồng đối với ông V.K.H1 để làm rõ sai phạm... Qua kết quả xác minh, nhận thấy hành vi của đ/c H.M.Đ có dấu hiệu cấu thành tội “nhận hối lộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điều 279 Bộ luật Hình sự...” (BL 212-213). Cùng ngày 11/7/2011, ông H.M.Đ đã được cán bộ T5 tra Công an quận lập biên bản làm việc, thừa nhận đã nhận và nộp lại 15 triệu đồng, còn lại 3 triệu đồng sẽ nộp khi có yêu cầu (BL 659). 1.2.2.- Căn cứ để Cơ quan điều tra Công an TP quyết định khởi tố vụ án và bị can: Sau khi tiến hành xác minh, làm rõ các dấu hiệu sai phạm, Công an quận B đã có đủ căn cứ xác định việc Báo T đăng tải công khai hai bài báo liên quan ông H.M.Đ là đúng sự thật, nên đã có nhiều lần đề nghị Ban giám đốc Công an TP H theo thẩm quyền xem xét, xử lý trước pháp luật đối với các hành vi vi phạm. Kết quả xác minh sau khi vụ án đã được khởi tố cũng chứng minh rõ nhận định trên. Cụ thể, theo Biên bản làm việc ngày 3/4/2012, Đội CSGT Công an quận B, sai phạm của H.M.Đ trong việc giải quyết trả xe biển số ..F6-..35 là: Nhận tiền của người trung gian, móc nối với kho tang vật lấy xe ra trả cho người vi phạm khi chưa thực hiện quyết định của Công an quận theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính và không được sự phê duyệt xuất kho của BCH Đội CSGT Công an quận B. Theo quy định để xử lý trả xe cho T.M.H3, Đội CSGT Công an quận B phải tiến hành làm rõ như sau: (+) Ra quyết định xử phạt theo lỗi vi phạm đã ghi trong Biên bản vi phạm; (+) Buộc T.M.H3 kiểm điểm trước Tổ Dân phố nơi cư trú, biên bản họp Tổ dân phố và có xác nhận của chính quyền địa phương; (+) Tiến hành xác minh chiếc xe ..F6-..35 theo quy định; và (+) T.M.H3 phải trực tiếp đến Đội CSGT Công an quận B để giải quyết, không được nhờ người khác lên thay... (BL 284-285). Căn cứ vào các sai phạm thực tế này, vào ngày 25/8/2011, Công an quận B tiếp tục có Báo cáo số 692/BC-CAQ (CTHC), sau khi mô tả diễn biến sự việc, đã tái khẳng định nội dung kết luận nói trên, đồng thời đề nghị “chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc đến Phòng Cảnh sát điều tra Công an TP H để tiếp tục điều tra làm rõ các sai phạm của đ/c Đ theo thẩm quyền và tiếp tục xác minh làm rõ hành vi của ông H1 (N.V.K) có dấu hiệu cấu thành tội “đưa hối lộ”...” (BL 216). Mặt khác, trong văn bản số 2172 ngày 22/9/2011, CQĐT gửi Tổng Biên tập Báo T có nêu rõ CQĐT Công an TP. H hiện đang điều tra vụ việc H.M.Đ- cán bộ Đội CSGT Công an quận B có hành vi “nhận hối lộ”. Sau khi liệt kê 2 bài báo “Đồng tiền xóa sạch hồ sơ” và “CSGT giải cứu xe đua trái phép”, CQĐT thừa nhận: “Được biết hai bài báo nói trên do phóng viên báo T H.K (tức N.V.K) là tác giả. Để làm rõ việc đưa và nhận hối lộ của H.M.Đ và một số cá nhân liên quan, ngày 20/9/2011 CQĐT có đến làm việc nhưng Ban Biên tập Báo T đi công tác nên giao giấy mời nhờ chuyển cho anh N.V.K đến làm việc vào sáng 21/9/2011, tuy nhiên anh N.V.K không đến để làm việc...” (BL 606). Hồ sơ vụ án thể hiện, căn cứ vào kết quả điều tra của Công an TP. H và kiến nghị của Công an quận B, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. H đã Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 417-01 ngày 26/10/2011 đối với các hành vi “nhận hối lộ, làm môi giới hối lộ, đưa hối lộ” xảy ra tại Công an quận B (BL 02). Cùng ngày này, tại văn bản số 297/CV-PC46 (Đ9) đề nghị