PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text 1733480841-Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về TT - NLMT-đã nén.pdf

Tổng hợp 10 bản án hủy, sửa về tranh chấp hợp đồng liên quan đến điện năng lượng mặt trời MỤC LỤC 1. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2022/KDTM-PT ngày 01/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng và cung cấp thiết bị lắp đặt vào công trình xây dựng 2. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 04/2024/KDTM-PT ngày 21/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp hợp đồng tổng thầu 3. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số .../2023/KDTM-PT ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp hợp đồng mua bán điện 4. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2023/KDTM-PT ngày 15/05/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá 5. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 16/2024/KDTM-PT ngày 22/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tranh chấp hợp đồng thi công 6. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 05/2023/KDTM-PT ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa 7. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2023/KDTM-PT ngày 06/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc tranh chấp hợp đồng mua bán điện 8. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 04/2024/KDTM-PT ngày 18/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá 9. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2024/KDTM-PT ngày 02/02/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc tranh chấp hợp đồng mua bán 10. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 03/2023/KDTM-PT ngày 09/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa 1. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2022/KDTM-PT ngày 01/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng và cung cấp thiết bị lắp đặt vào công trình xây dựng Nội dung hủy án: (i) Xét thấy, tại điều kiện thanh toán lần 5 (lần sau cùng) quy định tại mục 3.2 Điều 3 của Hợp đồng số 2611/2020/HĐTC-ĐNL thì ngoài các hồ sơ, tài liệu, chứng từ công ty D đã cung cấp thi công ty D còn phải cung cấp cho công ty K bản vẽ hoàn công công trình và phải có Biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng.

Y vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. 2. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 04/2024/KDTM-PT ngày 21/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp hợp đồng tổng thầu Nội dung hủy án: Xét khiếu nại của bị đơn về việc tại phiên tòa sơ thẩm Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên mức “nợ lãi chậm thanh toán” là 10%/năm nhưng trong bản án lại ghi là 15.13%/năm. Thấy rằng, tại biên bản nghị án ngày 11-8-2023 Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thống nhất buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn 585.796.920 đồng (Trong đó tiền nợ theo hợp đồng là 417.472.440 đồng, tiền nợ lãi chậm thanh toán là 168.324.480 đồng) nhưng khi tuyên án Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa chỉ buộc bị đơn phải trả 110.880.960 đồng tiền nợ lại chậm trả sai với biên bản nghị án, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn. 3. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số .../2023/KDTM-PT ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về việc tranh chấp hợp đồng mua bán điện Nội dung hủy án: (i) Như vậy, người khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty Điện lực Gia L phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán điện, nhưng Công ty Điện lực Gia L không phải là một trong các bên giao kết hợp đồng; Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án và xác định Công ty Điện lực Gia L là bị đơn, là không đúng quy định của pháp luật và không đúng với nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn (nguyên đơn không xác định Công ty Điện lực Gia L là người bị kiện). Lẽ ra, trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm phải yêu cầu 2 công ty phải sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện liên quan đến Công ty Điện lực Gia L cho phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự về đại diện, thì mới đúng quy định tại Điều 186, Điều 189, Điều 191, Điều 193, Điều 195, Điều 196 của Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án cấp sơ thẩm không những xác định không đúng tư cách tố tụng của Công ty Điện lực Gia L mà còn tuyên buộc Công ty Điện lực Gia L phải liên đới cùng Tổng Công ty Điện lực Miền T thanh toán cho Công ty Thanh D, Công ty Vạn P 11.742.518.427 đồng tiền bán điện từ ngày 11-3-2021 đến ngày 08-9- 2022 và lãi do chậm thanh toán theo mức lãi suất là 0,8%/tháng, tính từ ngày 11- 3-2021 đến 08-9-2022, là không đúng, bởi lẽ Công ty Điện lực Gia L không có nghĩa vụ gì liên quan đến hợp đồng mua bán điện của tổng công ty Điện lực Miền T với 2 công ty. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định như nêu trên là gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Điện lực Gia L và không đảm bảo cho việc tổ chức thi hành án. (ii) Như đã nêu trên, Văn bản ủy quyền lại số 4354/UQ-EVNCPC ngày 21-5-2019, Tổng Công ty điện lực Miền T ủy quyền cho cá nhân chứ không phải ủy quyền cho tổ chức, nhân danh mình
để thực hiện việc ký kết hợp đồng mua điện của 2 công ty nêu trên; như vậy, với việc ủy quyền cho cá nhân, thì các giao dịch mà Giám đốc Công ty Điện lực Gia L, Giám đốc điện lực Krông P thực hiện nhân danh Tổng công ty điện lực Miền T không thể là hoạt động của Công ty Điện lực Gia L hay của Điện lực Krông P. Do đó, tranh chấp hợp đồng mua bán điện theo đơn khởi kiện của Công ty Thanh D, Công ty Vạn P không phải là tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh Tổng công ty Điện lực Miền T, nên không thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định tại điểm b khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự đã viện dẫn nêu trên, nên Tòa án nhân dân thành phố P không có thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ án. Các sự kiện và nhận định trên cho thấy, việc Tòa án nhân dân thành phố P thụ lý vụ án, ra bản án giải quyết tranh chấp trong trường hợp này, là không đúng thẩm quyền. (iii) Các nhận định tại mục trên đây còn chứng tỏ ý kiến của phía nguyên đơn tại phiên tòa phúc thẩm cho rằng Tòa án nhân dân thành phố P có thẩm quyền giải quyết vụ án do đây là tranh chấp phát sinh từ hoạt động của Công ty Điện lực Gia L là chi nhánh của Tổng công ty điện lực Miền T và quá trình thanh toán nguyên đơn đều xuất hóa đơn cho Công ty Điện lực Gia L, là không có cơ sở, không phù hợp với quy định của pháp luật. Từ các đánh giá, phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy do Tòa án cấp sơ thẩm có nhiều vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và những vi phạm này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nên cần phải hủy bản án sơ thẩm và do Tòa án cấp phúc thẩm không có thẩm quyền chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền, hơn nữa, cũng không xác định được thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, nên mặc dù hủy bản án sơ thẩm, nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật tố tụng dân sự. 4. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2023/KDTM-PT ngày 15/05/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá Nội dung hủy án: (i) Các văn bản ủy quyền của nguyên đơn cho người đại diện theo ủy quyền là bà Thảo, ông Quân, ông Hùng tham gia tố tụng, nhưng nội dung ủy quyền lại ghi người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là không đúng (BL 42,43,65 - 68). (ii) Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 7/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, các bên đương sự đã thống nhất như sau: “theo xác định của các đương sự thì hiện nay toàn bộ tấm lợp lấy sáng đang lưu giữ tại nhà kho của Công ty T, đúng là toàn bộ hàng hóa mà Công ty N đã giao cho Công ty T” (BL 95 -96). Biên bản trên không thể hiện Công ty N đã giao cho Công ty T tấm lợp loại sóng vuông hay sóng tròn để đánh giá lời khai của các bên đương sự.

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.