Nội dung text Chương 15 Chế độ M trong hình ảnh tim thai 0483-0512.pdf
BiÍn dịch: Bs Nguyễn ChÌ Phồn Fb: Nguyễn ChÌ Phồn Zalo: 0982855594 475 Chế độ M trong hình ảnh tim thai GIỚI THIỆU Chế độ M hay chế độ chuyển động (Thời gian-Chuyển động) là công nghệ siêu âm đầu tiên được sử dụng để đánh giá tim. Được mô tả lần đầu tiên vào đầu những năm 1970 (1), phương thức siêu âm này là kỹ thuật duy nhất có sẵn trong tim mạch nhi và người lớn, cho đến đầu những năm 1980 khi máy tính xử lý nhanh cho phép xuất hiện chế độ thang xám 2D thời gian thực (chế độ B) (2). Ở thai nhi, chế độ M lần đầu tiên được sử dụng để mô tả các cấu trúc tim, chẳng hạn như thành tim và van tim; thực hiện các phép đo sinh trắc học tim cơ bản; đánh giá dịch màng ngoài tim; và sau đó được sử dụng để đánh giá rối loạn nhịp tim và chức năng tim (3,4). Ứng dụng thời gian thực của thang xám 2D cùng với Doppler quang phổ và màu sắc đã thay thế nhiều ứng dụng của chế độ M (2,5-7). Các ứng dụng hiện tại của chế độ M, ngoài việc ghi lại hoạt động của tim trong ba tháng đầu, bao gồm đánh giá rối loạn nhịp tim và chức năng tim bằng cách tính toán phân số rút ngắn và tống máu và dịch chuyển van hình khuyên (xem Chương 18). Trong chương này, chúng tôi thảo luận về các phương pháp để cải thiện khả năng hiển thị chế độ M và mô tả các tính năng chế độ M hiện có trong hình ảnh tim thai. Việc sử dụng chế độ M trong chức năng tim và rối loạn nhịp tim thai nhi được thảo luận chi tiết trong Chương 18 và 46, tương ứng. KỸ THUẬT CHẾ ĐỘ M Cài đặt chung Trong thực hành lâm sàng, trước tiên, hình ảnh 2D của tim thai được thu nhận và con trỏ chế độ M được đặt tại vị trí mong muốn trong tim. Việc áp dụng con trỏ chế độ M phụ thuộc vào chỉ định cụ thể cho nghiên cứu. Trong trục thời gian (trục x), đường đi trong chu kỳ tim của tất cả các cấu trúc dọc theo đường chế độ M được hiển thị (Hình 15.1). CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 1 5
BiÍn dịch: Bs Nguyễn ChÌ Phồn Fb: Nguyễn ChÌ Phồn Zalo: 0982855594 476 Một trong những vấn đề chính gặp phải là kích thước nhỏ của dấu vết chế độ M (Hình 15.2A) và chúng tôi khuyên bạn nên phóng to hình ảnh 2D (Hình 15.2B) khi tập trung vào các cấu trúc tim quan tâm. Một hạn chế chính khác của chế độ M ở thai nhi là chất lượng của hình ảnh thang xám trước khi kích hoạt chế độ M (Hình 15.2B) hoặc tốc độ theo dõi không phù hợp. Hình 15.3 cho thấy một số dấu vết chế độ M chất lượng thấp cùng với tốc độ theo dõi không phù hợp. Vì lý do này, cần có hình ảnh thang xám có độ phân giải cao với độ tương phản cao để tối ưu hóa dấu vết chế độ M, như được hiển thị trong các hình của chương này. Hình 15.1: Nguyên lý của chế độ M: Con trỏ được áp dụng thông qua các cấu trúc tim (đường màu xanh lam trong sơ đồ bên trái) cho phép theo dõi chuyển động của các cấu trúc này với chức năng của thời gian, như được hiển thị trong dấu vết chế độ M ở bên phải. Trong sơ đồ, con trỏ chế độ M được hiển thị để giao nhau với tâm nhĩ phải (RA), vách liên thất (IVS), van hai lá (MV) và tâm thất trái (LV). Dấu vết chế độ M tương ứng thể hiện sự dịch chuyển cơ tim như một hàm của thời gian. A, chuyển động của thành tâm nhĩ phải; V, chuyển động của thành tâm thất trái.
BiÍn dịch: Bs Nguyễn ChÌ Phồn Fb: Nguyễn ChÌ Phồn Zalo: 0982855594 477 Hình 15.2: Hình ảnh bốn buồng trục của tim thai với dấu vết chế độ M đi qua các tâm thất cho thấy ảnh hưởng của việc phóng đại tim trên chất lượng dấu vết. Trong bảng A, tim không được phóng đại trên 2D và các chuyển động của thành tim được hiển thị trên chế độ M, nhưng dấu vết nhỏ (mũi tên kép trong A), do đó rất khó giải thích hoặc thu được các phép đo. Trong bảng B, tim được phóng đại trên siêu âm 2D trước khi áp dụng con trỏ chế độ M, do đó cải thiện khả năng hiển thị và giải thích dấu vết chế độ M (mũi tên kép trong B). Đây là lỗi phổ biến nhất được quan sát thấy trong dấu vết chế độ M. Xem Hình 15.3.
BiÍn dịch: Bs Nguyễn ChÌ Phồn Fb: Nguyễn ChÌ Phồn Zalo: 0982855594 478 Hình 15.3: Các lỗi phổ biến được quan sát thấy trong các bản ghi chế độ M, dẫn đến các dấu vết không tối ưu như tim thai được phóng đại kém trong hình ảnh 2D (A) (xem Hình 15.2), siêu âm tim thai không phù hợp trên 2D (B) và tốc độ theo dõi chế độ M được điều chỉnh quá cao (C) hoặc quá thấp (D). Sự co bóp nhĩ thất để đánh giá nhịp tim Thu nhận hình ảnh bốn buồng của tim thai, lý tưởng nhất là từ chế độ xem đỉnh hoặc hơi xiên (Hình 15.4 và 15.5).