PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text Chap 7: Hướng tiếp cận sinh học: Tâm sinh lý .docx

1 PHẦN II: HƯỚNG TIẾP CẬN SINH HỌC Chapter 7: Tiếp cận tâm sinh lý Physiological Approaches to Personality 7.1 Phương pháp tiếp cận tâm sinh lý học trong nghiên cứu tính cách / A Physiological Approach to Personality 7.2 Các phương pháp đo lường phổ biến được sử dụng trong nghiên cứu tính cách / Physiological Measures Commonly Used in Personality Research 7.2.1 Đo hoạt động điện qua da (Độ dẫn điện của da) / Electrodermal Activity (Skin Conductance) 7.2.2 Đo hoạt động tim mạch / Cardiovascular Activity 7.2.3 Đo hoạt động não bộ bộ / Brain Activity 7.2.4 Các phương pháp đo lường khác / Other Measures 7.3 Các lý thuyết dựa trên tâm sinh lý học về tính cách / Physiologically Based Theories of Personality 7.3.1 Hướng ngoại – Hướng nội / Extraversion–Introversion 7.3.2 Sự nhạy cảm với phần thưởng và trừng phạt /Sensitivity to Reward and Punishment 7.3.3 Tìm kiếm cảm giác mạnh mạnh / Sensation Seeking 7.3.3 Chất dẫn truyền thần kinh và tính cách /Neurotransmitters and Personality 7.3.4 Người buổi sáng – người buổi tối / Morningness–Eveningness 7.3.5 Sự bất đối xứng của não bộ và kiểu cảm xúc Brain Asymmetry and Affective Style 7.4 Tóm tắt và đánh giá / Summary and Evaluation 7.5 Thuật ngữ chính / Key Term
2 HƯỚNG TIẾP CẬN SINH HỌC THE BIOLOGICAL DOMAIN Elliot là một doanh nhân thành đạt, một người cha đáng tự hào và một người chồng tử tế. Ở cơ quan, anh là hình mẫu cho đồng nghiệp ít tuổi hơn. Về mặt cá nhân, anh rất quyến rũ và vui vẻ. Kỹ năng xã hội của anh tốt đến mức anh thường được mời đứng ra giải quyết các tranh chấp tại cơ quan. Elliot được mọi người tôn trọng. Vị trí của anh trong tập thể, cuộc sống cá nhân hài lòng, sự giàu có và địa vị nghề nghiệp của anh đều đáng ghen tị. Elliot was a successful businessman, a proud father, and a good husband. At his firm, he was a role model for his younger colleagues. Personally, he was charming and pleasant. His social skills were such that he often was called on to settle disputes at work. Elliot was respected by others. His position in the community, his satisfying personal life, and his prosperity and professional status were all enviable. Một ngày, Elliot bắt đầu bị đau đầu dữ dội. Sau đó vài ngày, anh đi khám, bác sĩ nghi ngờ bị u não. Nghi ngờ này được xác nhận khi một khối u nhỏ được phát hiện không phải ở trong não mà trên lớp mô bao phủ não. Vị trí ngay trên mắt, sau trán anh. Tuy nhiên, khối u đã lan vào não và làm tổn thương một phần não nhỏ phía trước, vùng vỏ não trước, mà cần phải được cắt bỏ cùng với khối u. One day Elliot began to have severe headaches. After a few days, he went to his doctor, who suspected a brain tumor. This suspicion was confirmed when a small tumor was found growing not on his brain, but on the lining of tissue that covers the brain. The location was just above his eyes, behind his forehead. The tumor was, however, pushing against his brain and had damaged a small portion of the front of his brain, part of the prefrontal cortex, which had to be removed with the tumor. Ca phẫu thuật diễn ra suôn sẻ và Elliot hồi phục nhanh chóng, không có tổn thương nào lâu dài rõ rệt, ít nhất là không có bất kỳ điều gì bất thường khi kiểm tra. Chỉ số IQ của Elliot được kiểm tra sau ca phẫu thuật và phát hiện là vượt trội hơn hẳn so với trước khi phẫu thuật. Trí nhớ của anh cũng được kiểm tra và cho thấy là rất xuất sắc. Khả năng sử dụng và ngôn ngữ thông thạo của anh cũng không bị ảnh hưởng bởi ca phẫu thuật. Khả năng tính toán số học, ghi nhớ danh sách từ vựng, hình dung vật thể, phán đoán và đọc bản đồ đều không bị ảnh hưởng bởi ca phẫu thuật này. Tất cả các chức năng nhận thức của anh vẫn bình thường hoặc thậm chí vượt mức bình thường, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi việc một phần vỏ não trước bị cắt bỏ. Brain imaging techniques have enabled researchers to learn more about the brain’s role in behavior and personality than previously thought possible. © Don Farrall/Getty Images RF

4 Elliot được Tiến sĩ Antonio Damasio, một nhà thần kinh học tại Đại học Iowa để ý, người sau này đã viết một cuốn sách về tình trạng của Elliot (Damasio, 1994). Có vẻ như phần não nhỏ bị u bị cắt bỏ là phần rất quan trọng trong việc truyền thông tin cảm xúc đến các trung tâm suy luận cấp cao của não. Elliot báo cáo rằng sự thay đổi duy nhất ở bản thân mà anh nhận thấy là sau khi phẫu thuật, anh không cảm thấy có bất kỳ cảm xúc mạnh mẽ nào hoặc bất kỳ cảm xúc nào đối với vấn đề đó. Elliot came to the attention of Dr. Antonio Damasio, a neurologist at the University of Iowa, who later wrote a book about Elliot’s condition (Damasio, 1994). It seems that the small bit of brain matter destroyed by Elliot’s tumor was essential in transmitting emotional information to the higher reasoning centers of the brain. Elliot reported that the only change in himself that he noticed was that, after his operation, he did not feel any strong emotion, or much of any emotion for that matter. Trường hợp của Elliot cho chúng ta biết rằng cơ thể và tâm trí có mối liên hệ mật thiết với nhau. Thật vậy, sau cuộc phẫu thuật của Elliot, sự thay đổi lớn nhất ở anh là ở tính cách, chứ không phải ở trí nhớ, sự suy luận hay kiến ​​thức của anh. The case of Elliot shows us that the body and the mind are intimately connected. Indeed, after Elliot’s operation, the biggest change in him was in his personality, not in his memory, his reasoning, or his knowledge. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chấn thương sọ não có thể dẫn đến những thay đổi lớn về tính cách (Edmundson et al, 2015). Một trong những thay đổi phổ biến nhất trong tính cách sau chấn thương não là khả năng ức chế hoặc kiểm soát các xung động của một người bị suy giảm. Điều này đã được tìm thấy ở những trẻ bị chấn thương sọ não (Gerring & Vasa, 2016), ở người lớn bị chấn thương sọ não (Kim, 2002) và ở người cao tuổi bị chấn thương não do đột quỵ (Freshwater & Golden, 2002). Sự bốc đồng và thiếu tự chủ ngày càng tăng rất có thể do sự gián đoạn giữa các thùy trán, phần đóng vai trò là trung tâm điều hành của não và các vùng não khác. Kết quả là, những người bị chấn thương sọ não nặng có thể giữ lại hầu hết các khả năng nhận thức, nhưng mất đi khả năng tự chủ ở một mức độ nào đó (Lowenstein, 2002). Những người bị thay đổi tính cách sau chấn thương sọ não thường có biểu hiện tự động bộc phát, thay đổi tâm trạng đột ngột, hay gây gổ và có thể trở nên khá phá phách đối với gia đình(Beer & Lombardo, 2007). Thật vậy, đây là hồ sơ tính cách của một trong những bệnh nhân chấn thương não nổi tiếng nhất, Phineas Gage, người bị thương bởi một thanh sắt đâm xuyên não khi đang làm việc tại công trường xây dựng đường sắt vào giữa những năm 1800 (xem Bài đọc tham khảo). Studies have shown that traumatic brain injury can lead to large changes in personality (Edmundson et al., 2015). One of the most common changes in personality following brain injury is a diminished ability to inhibit or control one’s impulses. This has been found in children who experienced brain trauma (Gerring & Vasa, 2016), in adults with traumatic brain injuries (Kim, 2002), and in elderly persons whose brains have been injured by stroke (Freshwater & Golden, 2002). This increased impulsivity and lack of self-control is most likely due to disruptions between the frontal lobes, which serve as the executive control center of the brain, and other parts of the brain. As a result, persons with extensive brain injury can retain most of their cognitive abilities, yet lose some degree of self-control (Lowenstein, 2002). Persons with personality changes

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.