Nội dung text Chương 20 Thông liên thất 0652-0685_1729603913.pdf
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 648 ThÙng liÍn thất TH‘NG LI N THẤT Định nghĩa, Phổ bệnh v‡ Tỷ lệ mắc phải Thông liên thất (VSD) là dị tật tim bẩm sinh phổ biến nhất, có thể xảy ra đơn độc hoặc kết hợp với các dị tật tim khác (1). VSD là những khiếm khuyết ở v·ch liên thất, dẫn đến sự thông thương huyết động giữa tâm thất trái và tâm thất phải. Đã có một số phân loại VSD được đề xuất (1), trong đó phổ biến nhất là mô tả VSD dựa trên vị trí giải phẫu của nó trên vách ngăn. Về mặt giải phẫu, vách liên thất được chia thành bốn vùng: đường vào, cơ, màng và đường ra, dẫn đến bốn loại VSD (Hình 20.1 đến 20.3) (1,2). C H A P T E R 2 0
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 649 HÏnh 20.1: HÏnh vẽ sơ đồ c·c loại v‡ vị trÌ giải phẫu của thÙng liÍn thất (VSD) nhÏn từ t‚m thất phải được mở. Ao, động mạch chủ; PA, động mạch phổi.
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 650 HÏnh 20.2: HÏnh vẽ sơ đồ c·c loại v‡ vị trÌ giải phẫu của thÙng liÍn thất (VSD) nhÏn từ bốn buồng tim (trái) và đường ra (phải). Ao, động mạch chủ; IVC, tĩnh mạch chủ dưới; LA, tâm nhĩ trái; LV, t‚m thất trái; PA, động mạch phổi; RA, tâm nhĩ phải; RV, t‚m thất phải; SVC, tĩnh mạch chủ trÍn. HÏnh 20.3: HÏnh vẽ sơ đồ thÙng liÍn thất đường vào (A), cơ (B) và màng (C) được thể hiện trong c·c gÛc nhÏn mỏm tim của tim thai. LA, tâm nhĩ trái; LV, tâm thất trái; RA, tâm nhĩ phải; RV, t‚m thất phải. ThÙng liÍn thất đường v‡o. Vách ngăn đường vào là vách ngăn giữa van ba lá và van hai lá; một khiếm khuyết ở vách ngăn đường vào được gọi là VSD đường vào (sau hoặc dưới) (Hình 20.1 đến 20.3A). VSD đường vào là loại VSD được nhìn thấy trong thông liên nhĩ thất. Nó chiếm khoảng 5% tổng số các trường hợp VSD.
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 651 Thông liên thất cơ. Vách ngăn cơ dày (hoặc bè) là phần lớn nhất của vách ngăn, kéo dài từ các điểm bám của van ba lá đến đỉnh tim. VSD cơ có mặt ở bất kỳ phần nào của vách ngăn cơ (Hình 20.1 đến 20.3B) và có đường viền hoàn toàn là cơ (2). Với việc sử dụng phổ biến Doppler màu, VSD cơ hiện nay được chẩn đoán thường xuyên hơn. Trong các trường hợp trước sinh, VSD cơ là phổ biến nhất và chiếm khoảng 80% đến 90% tổng số các trường hợp VSD (3). Thông liên thất màng. Vách ngăn màng là vùng mỏng nhỏ trong đường ra tâm thất trái, ngay dưới van động mạch chủ và mào trên thất. Các khuyết tật trong vùng này được gọi là VSD màng (Hình 20.1 đến 20.3C) và là loại phổ biến nhất trong các trường hợp sơ sinh, chiếm khoảng 70% đến 80% (1,2). Trong các trường hợp VSD màng lớn hơn, các vùng giải phẫu liền kề bao gồm đường vào, cơ hoặc vùng vách ngăn đường ra có thể bị ảnh hưởng, biện minh cho việc sử dụng thuật ngữ VSD màng, thay vì VSD màng. Thông liên thất đường ra. Vách ngăn đường ra bao gồm vách ngăn phễu và dưới phễu liên quan đến vùng dưới van động mạch và trên mào trên thất. VSD trong vùng này được gọi là VSD đường ra (Hình 20.1), còn được gọi là VSD trên mào, phễu hoặc dưới phễu. Một từ đồng nghĩa khác được sử dụng là VSD dưới động mạch kép. VSD đường ra được tìm thấy trong 5% tổng số các trường hợp VSD và dường như phổ biến hơn ở dân số châu Á, vì nó được báo cáo ở hơn 30% trẻ sơ sinh (1). VSD đơn độc là dị tật tim bẩm sinh phổ biến nhất, nếu loại trừ van động mạch chủ hai lá và sa van hai lá (1). Tỷ lệ mắc VSD đơn độc thực sự rất khó đánh giá, và việc sử dụng Doppler màu một cách tự do trước và sau sinh đã dẫn đến sự gia tăng chẩn đoán. Đánh giá siêu âm tim sau sinh cho thấy tỷ lệ mắc VSD đơn độc là từ 2 đến 3,8 trên 1000 trẻ sinh sống (4-7). VSD đơn độc chiếm 41% đến 49% trẻ em sinh ra bị dị tật tim bẩm sinh (5-7). VSD cũng thường liên quan đến các bất thường tim khác nhau, vì chúng bắt buộc phải có ở một số trường hợp và thường xuyên hoặc đôi khi được tìm thấy ở những trường hợp khác (1,4). VSD có xu hướng tái phát cao và phổ biến hơn một chút ở trẻ gái (6,8). Trong chương này, chúng ta sẽ thảo luận về VSD đơn độc, do VSD xuất hiện kết hợp với các dị tật tim thai khác được thảo luận trong các chương tương ứng của chúng sau trong cuốn sách này.