Nội dung text 1722626080-1721812899-15. Luật sư T.V.N.docx
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lâp- Tự do – Hạnh phúc BẢN LUẬN CỨ Bảo vệ cho bị đơn là ông N.Đ.A và bà N.T.B trong vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ tại phiên Tòa Phúc thẩm Kính thưa: – Hội đồng xét xử – Thưa vị Đại diện VKSND tỉnh H – Và vị Luật sư đồng nghiệp Tôi là luật sư T.V.N, thuộc Văn phòng Luật sư P – Đoàn Luật sư tỉnh L, theo yêu của bị đơn là N.Đ.A và bà N.T.B và được sự chấp thuận của TAND tỉnh L tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trong vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” với Nguyên đơn là N.T.C tại giai đoạn phúc thẩm. Kính thưa Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay tôi xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho N.Đ.A và bà N.T.B là bị đơn trong vụ kiện dân về tranh chấp quyền sử dụng đất như sau: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã xử chấp nhận yêu cầu thay đổi nội dung khởi kiện của nguyên đơn bà N.T.C tại phiên Tòa sơ thẩm là đồng ý tiếp tục chuyển nhượng diện tích đất tranh chấp là 13.790m2 (theo đo đạt của Trung tâm thẩm định giá) buộc ông N.Đ.A và bà N.T.C trả cho nguyên đơn là bà N.T.C 1.237.174.616 đồng. Không đồng ý với toàn bộ nội dung của bản án sơ thẩm nói trên bị đơn và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã làm đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc Tòa án nhân dân tỉnh L giải quyết lại vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay quan điểm của luật sư như sau: I. Về Nội dung vụ án Thứ nhất: Phía nguyên đơn bà N.T.C khai rằng vào năm 1974 bà mua một lô đất có diện tích khỏang 02 ha toại lạc tại km số 5 có giấy tờ chế độ củ và có chứng nhận của địa phương lúc bấy giờ. Đến ngày 16/5/1993 chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông N.Đ.A và bà N.T.B với giá 7,5 chỉ vàng. Cũng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay người đại diện phía nguyên đơn đã thừa nhận là bà N.T.C đã chuyển nhượng lại cho ông N.Đ.A và bà N.T.B toàn bộ diện tích đất mà nguyên đơn đã mua vào năm 1974 là 20.000m2 . Tại giấy đoạn mãi ngày 04/01/1974 bà đã mua lại của ông V.X.D (do ông T.S.E đại diện đứng ra bán) là 48.480m2, chứ không phải là 20.000m2 như bà khai, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ: Tại sao có sự chênh lệch này, từ đó xác định vị trí của 13.790m2 đất tranh chấp này có đúng vị trí diện tích 48.480m2 của nguyên đơn mua vào năm 1974 không? Vì khi gia đình bị đơn bắt đầu sử dụng năm 1987, thì toàn bộ thửa đất đang tranh chấp nay là đất hoang không có người sử dụng. Thứ hai, Cần phải xác định rõ ông Hà Ngọc H người có đủ thẩm quyền đứng ra giao dịch mua bán đất với ông Nguyễn Đông Tây vào ngày 16/5/1993 không? Vì tại giấy đoạn mãi ngày 04/01/1974 thì người đứng ra mua đất của ông Vũ Xuân D không phải là ông Hà Ngọc Hứa mà ông Trần Văn Hùng. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét vấn đề này. Thư ba, tại giấy cam kết giữa ông H.N.H với ông N.Đ.A là 7,5 chỉ vàng cho diện tích là 15.000 m2 chứ không phải 13.790m2, nhưng khi xem xét thì áp dụng tỷ lệ 73,4% (của 5,5 /7,5) là không chính xác và Tòa cấp sơ thẩm cũng không xem xét việc cam kết này giữa hai bên là với mục đích thối công khai phá hoặc thành quả lao động như theo lời khai của nguyên đơn tại biên bản lời khai vào lúc 08 giờ 00 ngày 23/8/2007 mà xác định là mua bán đất là chưa phù hợp với tình tiết vụ án. Thứ tư, Cần xem xét giá trị mà trung tâm thẩm định giá Thương Tín thẩm định toàn bộ 13.790m2 là 1.685.524.000 đồng, đây là giá trị tăng lên là do quá trình gia đình ông N.Đ.A và bà N.T.B khai phá, tu tạo và sử dụng liên tục đồng thời sản xuất những cây công nghiệp có giá trị cao từ năm 1987 đến nay chứ không chỉ có giá trị tự nhiên của đất. Căn cứ hồ sơ, tài liệu có trong vụ án cũng như qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa phúc thẩm hôm này đồng thời qua phân tích của Luật sư nêu trên cho thấy bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ chưa xem xét
đầy đủ nội dung, tài liệu chứng để làm rõ vụ án một cách khách quan, đầy đủ và toàn diện đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông N.Đ.A và bà N.T.B. kính mong Hội đồng xét xử phúc thẩm quan tâm xem xét. II. Về Tố tụng Thứ nhất, Theo đơn khởi kiện thì nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16/5/1993, sau đó tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện là chấp nhận tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất 13.790m2 với giá trị là là 1.685.524.000 đồng quá trình thay đổi này đã làm thay đổi toàn bộ khoản tiền tạm ứng án phí trước đây của nguyên đơn là 50.000 đồng, nhưng tòa án cấp sơ thẩm cũng không xem xét mà vẫn tiếp tục tiến hành xét xử là không đảm bảo của pháp luật quy định về nộp tiền tạm ứng án phí. Hơn nữa tòa án cấp sơ thẩm xác định tranh chấp pháp luật của vụ án này là tranh chấp quyền sử dụng đất là không chính xác. Thứ hai, căn cứ vào Nghị quyết số 02/NQ – HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án cấp sơ thẩm của Bộ Luật tố tụng dân sự” Tại tiểu mục 1.1 Mục I quy định “Đối với cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Đồng thời ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ ”. Tại điểm a tiểu mục 1.5 Mục I quy định “Đối với trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 Mục I này, thì nguyên đơn trong vụ án chính là người khởi kiện”. Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ xác định nguyên đơn là bà N.T.C, nhưng trong hồ sơ vụ án thì bà C hoàn toàn không có đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 161 BLTTDS và hướng dẫn của Nghị quyết số 02/NQ – HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án cấp sơ thẩm của Bộ Luật Tố tụng dân sự” nêu trên. Như vậy, theo quy định của pháp luật nêu trên thì bà N.T.C với tư cách là nguyên đơn chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật và ông N.A.T người ủy quyền đứng đơn khởi kiện là vi phạm nghiêm trọng pháp luật không đủ điều kiện khởi kiên, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn thụ lý vụ án và đưa vụ án ra xét xử.
Thứ ba, về thủ tục ủy quyền giữa nguyên đơn là bà N.T.C với bà N.T.K.L cũng như giữa ông N.Đ.A, bà N.T.B với ông N.B.S đều không có văn bản ủy quyền, không có chứng thực hoặc công chứng mà chỉ có bản lấy lời khai của Tòa án với đương sự và tại phiên tòa cũng không có bà C, ông A và bà B tham dự trực tiếp là chưa đủ cơ sớ pháp lý để bà N.T.K.L và N.B.S tham gia phiên tòa sơ thẩm theo ủy quyền đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật. Căn cứ hồ sơ, tài liệu có trong vụ án cũng như qua thẩm vấn tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay đồng thời qua phân tích của Luật sư nêu trên cho thấy Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã vi phạm nghiệm trọng về tố tụng. Kính mong HĐ xét xử lưu tâm xem xét. Kính thưa Hội đồng xét xử với tư cách và trách nhiệm của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay cũng như qua phần phân tích về nội dung vụ án và về tố tụng của bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ nêu trên. Căn cứ Điều 263 BLTTDS (nay là Điều 293 BLTTDS năm 2015) quy định phạm vi xét xử phúc thẩm, kính mong Hội đồng xét lại toàn bộ nội dung và về tố tụng của Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ. Chân thành cảm ơn quý vị đã lắng nghe!