PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text 1722626100-1721812798-12.Luật sư P.M.T.docx

1 BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN ĐƠN VỀ VIỆC ĐỀ NGHỊ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KÍNH THƯA HĐXX! Để không làm mất nhiều thời gian, tôi xin tóm tắt rất ngắn gọn về nguồn gốc đất, quá trình chiếm hữu, sử dụng và trực tiếp đóng thuế đối với mảnh đất tại địa chỉ ..., V, phường N, Tp. Đ, tại thửa đất số 29, tờ bản đồ số 31, của bà N.T.L.O., sau khi nhận chuyển nhượng từ bà B.T.S., như sau: I. Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất tại ..., V, phường N, Tp. Đ của bà N.T.L.O: 1. Về nguồn gốc đất theo tường trình của bà O: Năm 1989, bà V.T.T đã chuyển nhượng cho bà B.T.S (mới mất năm 2022), mảnh đất tại địa chỉ ..., V, thuộc thửa đất số 29, tờ bản đồ số 31, phường N, Tp. Đ. Việc chuyển nhượng có lập giấy viết tay, có xác nhận của UBND phường N, Tp Đ. Năm 1991, bà B.T.S. bán lại cho bà N.T.LO, cũng có xác nhận của UBND P. N, TP. Đ. 2. Về kê khai đăng ký & đóng thuế: - Vào năm 1998, bà N.T.L.O đã làm Hồ sơ đăng ký kê khai, có Giấy biên nhận hồ sơ của UBND Tp. Đà Lạt, ngày 05/01/1998. - Tháng 3/2004, bà N.T.L.O. làm Tờ khai đóng thuế đất, được Chi cục Thuế cấp, có xác nhận của Chủ tịch UBND phường N - là ông P.M.C.T (tại thời điểm đó), vào ngày 01/3/2004. - Đến năm 2008, bà L.O cho ông N.C.A (nhà đối diện) thuê làm trại mộc trong suốt 10 năm, kể từ 2008 đến 2018, có làm hợp đồng cho thuê. Sau đó, ông A có cơi nới thêm khoảng 60m2 nữa, nên căn nhà có diện tích khoảng 120m2 (phía nguyên đơn - bà L.O - đã cung cấp cho quý Tòa đầy đủ các tài liệu, chứng cứ chứng minh). Việc này, bà N.T.L.A không thể nói mình không biết. Vì ông N.C.A thuê để làm xưởng mộc, chứ không phải thuê nhà đất này rồi đóng cửa bỏ đó. - Năm 2005, UBND thành phố Đ ra Quyết định số 371/QĐ-UB, ngày 28/02/2005 về việc thu hồi một phần diện tích (101,78m2) thửa số 29, tờ bản đồ số 31, kèm theo hoạ đồ thửa đất có xác nhận của Trung tâm giá, UBND Phường N, Phòng Tài nguyên & Môi
2 trường và UBND Tp Đ, mà NGƯỜI BỊ THU HỒI ĐẤT: bà N.T.L.O & ông Đ.Đ.T, chứ không không phải là bà N.T.L.A. - Năm 2010, bà N.T.L.O đã làm Hồ sơ đăng ký xin cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) nộp cho cho Phòng Tài nguyên & Môi trường (TN&MT), kèm theo nhiều giấy tờ, tài liệu có liên quan chứng minh mình là chủ sở hữu mảnh đất nói trên. Việc bà L.O nộp Hồ sơ đăng ký xin cấp GCNQSDĐ được ghi nhận tại Biên nhận Hồ sơ cấp GCNQSDĐ số 169/BN-GCN, mã hồ sơ: 600-05044920). Cũng chính vì khi nộp hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ này, bà N.T.L.O mới phát hiện tờ Giấy mua bán gốc giữa bà B.T.S ký bán cho mình đã bị thất lạc. Cán bộ Phòng TN&MT tại nơi tiếp nhận Hồ sơ đã hướng dẫn bà N.T.L.O làm các giấy tờ sau:  Đơn xin xác nhận bị thất lạc giấy mua bán gốc;  Đơn mua bán hoàn thành;  Đơn xác nhận chưa được cấp GCNQSDĐ và có xác nhận của chính quyền địa phương, rồi bổ sung vào hồ sơ. Bà N.T.L.O đã thực hiện theo đúng hướng dẫn, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên của cán bộ Phòng TN&MT. Tuy nhiên, không hiểu lý do gì, cho đến nay, bà N.T.L.O vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết? Thế nhưng, đến năm 2017, khi bà L.A nộp hồ sơ làm thủ tục xin cấp GCNQSDĐ, thì các cơ quan có thẩm quyền của TP. Đ lại “quên” đi việc đã hướng dẫn cho bà L.O khi bà O nộp hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ vào năm 2010, nên đã cấp GCNQSDĐ sai đối tượng cho bà L.A, một cách dễ dàng đến vậy? Hai vợ chồng bà O và ông T đã sử dụng ổn định thửa đất trên kể từ khi mua - năm 1991 cho đến nay và vẫn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính, trực tiếp đóng thuế cho nhà nước theo luật định (có đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh, đã gửi Quý Tòa). Mới đây nhất, Chi cục thuế khu vực Đ – L vẫn gửi THÔNG BÁO NỘP THUẾ trực tiếp cho NGƯỜI CÓ NGHĨA VỤ NỘP THUẾ năm 2022, không ai khác, vẫn chính là Bà N.T.L.O. II. Nguồn gốc đất theo trình bày của bà N.T.L.A - chưa từng đăng ký kê khai và chưa từng nộp thuế đất: 1. Nguồn gốc mảnh đất tại địa chỉ ..., V, phường N, Tp. Đ, theo lời khai của bà N.T.L.A: Tại Đơn xin cấp GCNQSDĐ của bà L.A được UBND phường N xác nhận, được sao lục số 15, tháng 7/2018, do Phó CVP. UBND TP. Đ – T.X.T kí, cũng như trong nội dung Bản kết luận của Cơ quan Thanh tra TP. Đ, ngày 13/10/2017 và nội dung Đơn trình
3 bày ý kiến ngày 16/3/2020, của bà L.A, gửi TAND tỉnh L, thì nguồn gốc mảnh đất do bà N.T.H.A., tự khai phá và bán cho bà N.T.L.A vào năm 1990 (theo tờ khai xin cấp GCNQSDĐ được sao lục số 15, tháng 7/2018, do Phó CVP. UBND TP. Đ – T.X.T kí). Bà N.T.H.A đã xác nhận cho bà N.T.L.A. Bà L.A còn khai, sau khi nhận chuyển nhượng từ bà H.A, bà L.A đã cho bà N.T.L.O MƯỢN sử dụng cho đến nay (nhưng bà L.A không đưa ra được bất cứ tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh). * LƯU Ý: Sau đó, bà L.A đã thay đổi lời khai: - Nguồn gốc lô đất 293,14m2 tại thửa số 29, tờ bản đồ số 31, phường N, TP. Đ là của ông Đ.V.H và V.T.T khai phá trước 1975, sau đó ông H và bà T tặng cho con là ông Đ.Đ.L. Năm 1990, ông Đ.Đ.L đã sang nhượng lại cho bà N.T.H.A (ông L xác nhận) và rồi bà H.A chuyển nhượng lại cho bà N.T.L.A (bà H.A xác nhận). Sau khi nhận chuyển nhượng, bà N.T.L.A đã cho bà N.T.L.O MƯỢN sử dụng cho đến nay. Thế nhưng, ông H, ông L. và cả bà H.A lẫn bà L.A đã không đưa ra được bất cứ giấy tờ tài liệu, chứng cứ hợp pháp nào để chứng minh cho lời khai của họ là có căn cứ. 2. Quá trình quản lý, sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Lan A., như sau: Trong buổi làm việc ngày 25/7/2017, tại UBND phường N, có sự hiện diện của Đại diện Phòng TN&MT, UBND phường N, bà L.A khai: không đăng ký kê khai, không đóng thuế, mà chỉ tổng đăng ký 1 lần duy nhất trong khoảng thời gian 1990-1993, nhưng bà L.A cũng không đưa ra được bất cứ chứng cứ hợp pháp nào để chứng minh cho lời khai của mình (cần truy chứng tư đăng ký tại CQ quản lý đất đai TP. Đ). Qua lời khai về nguồn gốc mảnh đất tại địa chỉ ..., V, phường N, Tp. Đ của bà L.A, điều đầu tiên, một người bình thường cũng nhận thấy, đó là sự thiếu trung thực, gian dối, vô căn cứ. Để giúp HĐXX cùng những người tham gia phiên tòa và cả những ai quan tâm đến vụ án này, tôi xin đề cập 02 bộ hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của bà L.O và của bà L.A, đồng thời so sánh tính pháp lý coi bộ hồ sơ nào thuyết phục hơn. Thứ nhất, tôi xin đề cập đến bộ hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của bà L.O: 1. Đơn xin cấp GCNQSDĐ; 2. Giấy sang nhượng đất giữa bà V.T.T và bà B.T.S (có xác nhận của chính quyền địa phương – BẢN GỐC); 3. CMND và hộ khẩu của các chủ sử dụng đất;
4 4. Giấy sang nhượng đất giữa bà B.T.S và bà N.T.L.O (có xác nhận của chính quyền địa phương – bản photo coppy); 5. Đơn mua bán đã hoàn thành (có xác nhận của chính quyền địa phương – BẢN GỐC); 6. Đơn cam đoan thất lạc tờ mua bán gốc (có xác nhận của chính quyền địa phương); 7. Đơn xin xác nhận chưa được cấp GCNQSDĐ (có xác nhận của chính quyền địa phương); 8. Các biên lai, chứng từ nộp thuế đất trong suốt thời gian từ khi bà L.O nhận sang nhượng đất từ bà B.T.S đến nay. Thứ hai, còn bộ hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của bà L.A, thì sao, chỉ có: 1. Đơn xin xác nhận nguồn gốc đất ngày 27/02/2017, do bà N.T.H.A xác nhận bán lô đất trên cho bà L.A (không có tài liệu, chứng cứ chứng minh); 2. Phiếu lấy ý kiến khu dân cư ngày 12/4/2017 (dấu hiệu của sự gian dối); 3. Biên bản xác minh cấp GCNQSDĐ và QSHN Ở và tài sản gắn liền với đất (dấu hiệu vô trách nhiệm và sai lệch); 4. Thông báo về việc công khai hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ ngày 13/4/2017, trong 15 ngày (nhưng bà L.O không hề hay biết). Chỉ cần nhìn vào danh mục những giấy tờ liệt kế trong 02 bộ hồ sơ của bà L.O và bà L.A, thì người dân bình thường cũng có thể nhận biết được hồ sơ của bà L.O có đầy đủ căn cứ thuyết phục hơn hẳn hồ sơ của bà L.A, nếu không muốn nói hồ sơ của bà L.A không hề có bất cứ căn cứ thuyết phục nào. Theo Điều 100 Luật đất đai 2013, tại khoản 1, điểm d, đã ghi rất rõ: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có “Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993”, thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Nghị định 43/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013, tại Điều 21, quy định như sau: Điều 21. Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định 1. Sử dụng đất ổn định là việc sử dụng đất liên tục vào một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm cấp GCNQSDĐ, QSH nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp GCNQSDĐ, GCNQSH nhà ở và QSDĐ ở, GCNQSDĐ, GCNQSH nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.