PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text 1722624587-1722307087-5 Luật sư T.T.T.doc

Trang 1/4 LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN ĐƠN Kính thưa Hội đồng xét xử! Thưa vị đại diện Viện kiểm sát và các luật sư đồng nghiệp! Tôi là Luật sư T.T.T đến từ Công ty Luật N, thuộc Đoàn Luật sư Tp. H. Tôi tham gia phiên tòa hôm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty TNHH S trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng xây dựng” giữa Công ty TNHH S và Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C. Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phần xét hỏi công khai tại phiên hôm nay, tôi xin trình bày một số quan điểm của mình đối với vụ án để chứng minh yêu cầu của thân chủ tôi là hoàn toàn có căn cứ và hợp pháp. Vì đây là tranh chấp hợp đồng gia công trong thương mại giữa hai pháp nhân, nhằm mục đích sinh lợi, căn cứ Điều 4 LTM 2005, tôi sẽ ưu tiên phân tích và dẫn chiếu pháp luật Luật thương mại là chủ yếu, một số vấn đề Luật thương mại không đề cập hoặc có cùng quan điểm điều chỉnh như BLDS năm 2005, thì tôi xin dẫn chiếu thêm để bổ sung và áp dụng pháp luật Dân sự, theo đúng tinh thần chung về thứ tự áp dụng pháp luật. Thứ nhất: Yêu cầu Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C có trách nhiệm thanh toán số nợ gốc cho công ty Công ty TNHH S là 275.001.000đ và lãi phát sinh do chậm trả (từ 20/06/2009 đến 20/02/2012) cụ thể như sau: Nợ gốc: 275.001.000 đồng Lãi phát sinh: 271.150.986 đồng (275.001.000 đồng x 58 tháng x 1,7%) Tổng số tiền phải thanh toán là: 546.151.986 đồng (Bằng chữ: Năm trăm bốn mươi sáu triệu, một trăm năm mươi mốt nghìn chín trăm tám mươi sáu đồng). Căn cứ theo Điều 290 Bộ luật Dân sự 2005 (nay là Điều 280 BLDS năm 2015), Điều 306 Luật Thương mại 2005 và Hợp đồng giao nhận thầu phụ được lập ngày 8/12/2005 giữa Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C ký với Công ty TNHH S; Biên bản nghiệm thu khối lượng lập ngày 13/05/2006; Biên bản xác nhận khối lượng đã hoàn thành lập ngày 16/6/2009; Bản thanh lý hợp đồng ngày 20/6/2009 và Biên bản đối chiếu xác nhận công nợ ngày 21/11/2011 thì cả hai bên đều đồng ý là đã có việc giao kết hợp đồng và xác định số nợ phải thanh toán. Tuy nhiên phía Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C lại chần chừ, đùn đẩy trách nhiệm và không chịu thanh toán số tiền mà mình có trách nhiệm phải trả cho Công ty TNHH S.
Trang 2/4 Theo quy định tại Khoản 2 Điều 77 Luật Doanh nghiệp 2005 (nay là Điều 111 Luật Doanh nghiệp 2020): “Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” và Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005 (nay là Điều 74 BLDS năm 2015) quy định một tổ chức được công nhận là pháp nhân thì: “Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”. Như vậy, Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C ký kết Hợp đồng giao nhận thầu phụ với Công ty TNHH S ngày 08/12/2005 nhân danh Công ty mình tham gia tự thỏa thuận, thương lượng và ký kết với nhau một cách độc lập. Do đó, phía Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C cho rằng giúp ký hợp đồng thầu phụ để giao việc cho Công ty TNHH S là tạo điều kiện để hợp pháp hóa thủ tục chứ không biết giữa họ và nhà thầu chính thỏa thuận những gì là hoàn toàn không có cơ sở. Bởi lẽ, Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C đã nhân danh chính mình ký kết toàn bộ các giấy tờ thể hiện từ việc giao kết hợp đồng cho đến thanh lý hợp đồng và đã nhiều lần thừa nhận mình tham gia ký kết với Công ty TNHH S, cụ thể tại Biên bản hòa giải ngày 23/5/2012 thì không thể nào phía Công ty không biết được nội dung thể hiện trong hợp đồng và tiến trình hoạt động đến khi hoàn tất các công việc đã giao kết. Với những lý do trên, tôi khẳng định rằng, Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C là một pháp nhân hợp pháp, nhân danh mình giao kết thỏa thuận với Công ty TNHH S, sau khi hoàn thành công việc thì phải có trách nhiệm thanh toán cho công ty TNHH S. Phía Công ty TNHH S đã nhiều lần gửi Giấy đề nghị yêu cầu thanh toán nhưng bên phía Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C không có thiện chí để hợp tác thanh toán số nợ trên, đùn đẩy trách nhiệm cho phía Công ty Vật tư Vận tải và Xây dựng C (nay là Công ty TNHH Một Thành Viên Vận tải và Xây dựng…) và cho rằng Công ty này là Công ty mẹ nhận thầu chính trong công trình thi công sơn nóng toàn bộ khối lượng theo hồ sơ thiết kế thuộc gói thầu 01 dự án cải tạo Quốc lộ BH đoạn Thị xã S – cầu T (Km41-Km45). Tuy nhiên, vào năm 2006 Công ty TNHH S chỉ ký Hợp đồng với Công ty Cổ phần Vận Tải và Xây dựng C thi công sơn nóng toàn bộ khối lượng theo hồ sơ thiết kế thuộc gói thầu 01 dự án cải tạo Quốc lộ BH đoạn Thị xã S – cầu T (Km41-Km45) theo Hợp đồng giao nhận thầu phụ số 012/05 ngày 08/12/2005. Ngày 20/6/2009 hai bên ký Biên bản thanh lý Hợp đồng số 012/05 ngày 08/12/2005. Theo nội dung biên bản này thì phía Công ty Cổ phần Vận Tải và Xây dựng C có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH S số tiền 275.001.000 đồng. Quá trình ký kết hợp đồng, thi công, thanh lý hợp đồng, Công ty TNHH S không ký bất kỳ một văn bản giấy tờ nào liên quan đến Tổng Công ty Vật tư vận tải và Xây dựng C.
Trang 3/4 Theo căn cứ theo Điều 290 BLDS 2005 và Điều 306 LTM 2005 quy định quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán như sau: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lí khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả”. Vì vậy, việc yêu cầu thanh toán của Công ty TNHH S cả tiền nợ gốc là 275.001.000 đồng và tiền lãi chậm trả là 271.150.986 đồng là hoàn toàn có cơ sở, đúng quy định của pháp luật và tôi mong Hội đồng xét xử xem xét và chấp thuận cho yêu cầu này. Thứ hai: Thân chủ tôi yêu cầu phía Công ty Cổ phần vận tải và xây dựng C phải thanh toán các khoản phạt, án phí, các khoản phát sinh khác theo quy định pháp luật. Căn cứ theo khoản 1 Điều 131 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (nay là Điều 147 BLTTDS năm 2015) quy định về nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm như sau: “Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn nộp án phí sơ thẩm hoặc không phải nộp án phí sơ thẩm” và quy định tại khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án thì “Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận”. Như đã phân tích ở trên, Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C phải có trách nhiệm thanh toán số tiền nợ đối với công ty TNHH S nên Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C phải có trách nhiệm thanh toán các khoản phạt, án phí và các khoản phát sinh khác, điều này là phù hợp với quy định của pháp luật. Thứ ba: Yêu cầu Tòa án có biện pháp phong tỏa tài khoản của Công ty Cổ phần vận tải và xây dựng C để đảm bảo thu hồi công nợ. Yêu cầu này là hoàn toàn hợp lý bởi vì thời gian mà hai bên thực hiện xong hợp đồng và thanh lý hợp đồng là ngày 20/6/2006 vậy mà đến nay là ngày 11/6/2012, bên phía Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Căn cứ Điều 99 quy định về Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và Điều 112 quy định về Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 (nay là Điều 111 và Điều 124 BLTTDS năm 2015) thì Công ty TNHH S có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản của Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C để đảm bảo cho việc thi hành án và không để cho phía bị đơn không tẩu tán tài sản. Bởi phía thân chủ tôi đã rất nhiều lần làm việc cũng như thỏa thuận và có gia hạn thời gian để Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C có thời gian thanh toán nợ, tuy nhiên phía bị đơn vẫn chần chừ,
Trang 4/4 chây ì và không chịu thanh toán. Thiết nghĩ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là phong tỏa tài khoản của Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C để đảm bảo thu hồi nợ và có thể thi hành bản án của Tòa án là điều hoàn toàn hợp lý và phù hợp với các quy định pháp luật mà tôi đã dẫn chiếu. Từ những lẽ đó, có thể thấy Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C có nghĩa vụ phải thanh toán số nợ gốc cho Công ty S là 275.001.000 đồng và lãi phát sinh do chậm trả (từ 20/06/2009 đến 20/02/2012) với tổng số tiền phải thanh toán là: 546.151.986 đồng. Đồng thời, phía Công ty Cổ phần Vận tải và Xây dựng C phải thanh toán các khoản phạt, án phí, các khoản phát sinh khác theo quy định pháp luật. Và yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản của Công ty Cổ phần vận tải và xây dựng C để đảm bảo khả năng thu hồi công nợ sau này. Với những phân tích cùng với các tài liệu, chứng cứ chứng minh tại phiên tòa ngày hôm nay, một lần nữa, tôi kính mong HĐXX công minh xem xét các tình tiết của vụ án, chấp nhận yêu cầu có đủ cơ sở của nguyên đơn, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Xin cảm ơn HĐXX đã quan tâm lắng nghe!

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.