Nội dung text Chap 16: Giới tính, vai trò của giới tính.docx
Chap 16: Giới tính, Vai trò giới và Tính cách Sex, Gender, and Personality Khoa học và những quan điểm nghiên cứu về Giới tính và Giới/The Science and Politics of Studying Sex and Gender Lịch sử nghiên cứu về sự khác biệt giới tính/ History of the Study of Sex Differences Tính toán kích thước hiệu ứng: Sự khác biệt về giới tính lớn đến mức nào?/ Calculation of Effect Size: How Large Are the Sex Differences? Chủ nghĩa tối giản và Chủ nghĩa tối đa/ Minimalists and Maximalists Sự khác biệt giới tính trong tính cách/Sex Differences in Personality Tính khí ở trẻ em/ Temperament in Children Mô hình 05 yếu tố/ Five-Factor Model Cảm xúc cơ bản: Tần suất và cường độ/ Basic Emotions: Frequency and Intensity Những khía cạnh khác của tính cách/ Other Dimensions of Personality Nam tính, Nữ tính, Trung tính và Vai trò giới tính /
Masculinity, Femininity, Androgyny, and Sex Roles Nghiên cứu về Trung tính/ The Search for Androgyny Định kiến giới/ Gender Stereotypes Các lý thuyết về sự khác biệt giới tính/ Theories of Sex Differences Xã hội hóa vai trò xã hội/ Socialization and Social Roles Lý thuyết về hocrmon/ Hormonal Theories Thuyết tâm lý học tiến hóa/ Evolutionary Psychology Theory Một quan điểm lý thuyết tích hợp/ An Integrated Theoretical Perspective Tổng kết và đánh giá/Summary and Evaluation Các thuật ngữ chính/KEy tErmS LĨNH VỰC VĂN HÓA VÀ XÃ HỘI T H E S O C I A L A N D C U L T U R A L D O M A I N Hình Một số khác biệt về tính cách giữa nam và nữ trưởng thành được giả thuyết là do các sự kiện môi trường xảy ra trong thời kỳ thanh thiếu niên. Figure Some differences in personality between adult men and women are hypothesized to result from environmental events that occur during adolescence. © Monashee Frantz/age fotostock RF Bất chấp những tiến bộ của nữ quyền, mức độ phân biệt giới tính và bạo lực ngày càng leo thang - từ việc trí thông minh bị đánh giá thấp đến quấy rối tình dục ở trường tiểu học - khiến các em gái bị bóp nghẹt tinh thần sáng tạo và các xung lực tự nhiên, điều này cuối cùng hủy hoại lòng tự trọng của họ ”(Pipher, 1994, bookjacket). Đây là phần trích dẫn từ cuốn sách
Reviving Ophelia, cuốn sách vẫn nằm trong danh sách bán chạy nhất trong 135 tuần đáng kinh ngạc (Kling et al., 1999). Ý kiến được phố biến rộng rãi tin rằng phụ nữ có lòng tự trọng thấp hơn nam giới và sự khác biệt về nhân cách trưởng thành này là do những sự kiện tiêu cực trong quá trình phát triển gây ra. Despite the advances of feminism, escalating levels of sexism and violence—from undervalued intelligence to sexual harassment in elementary school—cause girls to stifle their creative spirit and natural impulses, which ultimately destroys their self-esteem” (Pipher, 1994, bookjacket). This is a quotation from the book Reviving Ophelia, which remained on the best-seller list for an astonishing 135 weeks (Kling et al., 1999). The sentiment expresses widespread belief that women suffer lower self-esteem than men do and that this difference in adult personality is caused by destructive events during development. Mặc dù chúng ta không thể biết chắc chắn tại sao “Reviving Ophelia” vẫn phổ biến trong thời gian dài, nhưng một số khả năng cần được xem xét. Thứ nhất, về bản chất, con người bị cuốn hút bởi sự khác biệt về giới tính về mặt tâm lý: sự khác biệt trung bình giữa phụ nữ và nam giới về tính cách hoặc hành vi. Thứ hai, nhiều người lo ngại về tác động chính trị của những phát hiện về sự khác biệt giới tính. Liệu những phát hiện như vậy có được sử dụng để thúc đẩy định kiến giới không? Liệu phát hiện có được sử dụng để đàn áp phụ nữ? Thứ ba, mọi người quan tâm đến những tác động thực tế của sự khác biệt giới tính đối với cuộc sống hàng ngày của họ. Liệu kiến thức về sự khác biệt giới tính có giúp mọi người hiểu và giao tiếp tốt hơn và giảm xung đột giữa các giới tính? Although we cannot know with certainty why Reviving Ophelia remained popular for so long, several possibilities warrant consideration. First, people are intrinsically fascinated with psychological sex differences: average differences between women and men in personality or behavior. Second, many people are concerned with the political implications of findings of sex differences. Will such findings be used to foster gender stereotypes? Will findings be used to oppress women? Third, people are concerned with the practical implications of sex differences for their everyday lives. Will knowledge of sex differences help people to understand and communicate better and reduce conflict between genders? Chương này tập trung chủ yếu vào các vấn đề khoa học, nhưng nó cũng thảo luận về các cuộc tranh luận rộng hơn về các phát hiện khoa học. Phụ nữ và đàn ông về cơ bản là khác nhau hay về cơ bản là giống nhau về tính cách? Có phải sự khác biệt đã bị phóng đại vì định kiến của mọi người về phụ nữ và đàn ông như thế nào không? Những lý thuyết nào đưa ra những lời giải thích thuyết phục về các đặc điểm liên quan đến giới tính của tính cách? Cụm từ khác biệt giới tính được sử dụng trong cuốn sách này chỉ đơn giản là đề cập đến sự khác biệt trung bình giữa phụ nữ và nam giới về các đặc điểm nhất định, chẳng hạn như chiều cao, phân bố chất béo cơ thể hoặc đặc điểm tính cách, không có định kiến về nguyên nhân của sự khác biệt. This chapter focuses centrally on the scientific issues, but it also discusses the broader debate about the scientific findings. Are women and men basically different or basically the same when it comes to personality? Have the differences been exaggerated because of stereotypes people have about what women and men are like? Which theories provide compelling explanations for sex-linked features of personality? As used in this book, the phrase sex differences simply refers to an average difference between women and men on certain characteristics, such as height, body fat distribution, or personality characteristics, with no prejudgment about the cause of the difference.
Chúng ta bắt đầu bằng cách phác thảo ngắn gọn lịch sử nghiên cứu về sự khác biệt giới tính trong tính cách. Thông tin cơ bản này sẽ cho thấy chủ đề này phức tạp như thế nào: chúng ta sẽ thấy rằng định nghĩa về giới tính, hoặc các diễn giải xã hội về ý nghĩa của việc trở thành đàn ông hay phụ nữ, có thể thay đổi theo thời gian. Tiếp theo, chúng ta xem xét một số kỹ thuật mà các nhà tâm lý học sử dụng để xác định sự khác biệt về giới tính từ dữ liệu nghiên cứu. Chúng tôi xem xét sự khác biệt về giới tính ở các đặc điểm như tính quyết đoán, tội phạm và tình dục, và sử dụng những khác biệt này để khám phá chủ đề hấp dẫn của định kiến giới: niềm tin về cách đàn ông và phụ nữ khác nhau hoặc được cho là khác nhau, trái ngược với sự khác biệt thực tế. Cuối cùng, chúng tôi khám phá các lý thuyết cố gắng giải thích nguồn gốc của những khác biệt giới tính này. We begin by briefly sketching the history of the study of sex differences in personality. This background information will show how complex this topic is: we will see that the definition of gender, or social interpretations of what it means to be a man or a woman, can change over time. Next, we look at some of the techniques psychologists use to identify sex differences from research data. We examine sex differences in traits such as assertiveness, criminality, and sexuality, and use these differences to explore the fascinating topic of gender stereotypes: beliefs about how men and women differ or are supposed to differ, in contrast to what the actual differences are. Finally, we explore theories that attempt to explain the origins of these sex differences. Khoa học và những quan điểm nghiên cứu về Giới tính và Giới/ The Science and Politics of Studying Sex and Gender Rất ít chủ đề tạo ra nhiều tranh cãi như nghiên cứu về sự khác biệt giới tính; “Các cuộc tranh luận công khai về bản chất của phụ nữ và nam giới thường xuyên được chú ý, cho dù là trong các báo cáo truyền thông về những phát hiện mới nhất về giới tính hay trong các vụ án pháp lý được công bố rộng rãi liên quan đến các cơ sở giáo dục đơn giới hoặc quấy rối tình dục” (Deaux & LaFrance, 1998, tr (788). Ví dụ, một số người lo lắng rằng những phát hiện về sự khác biệt giới tính có thể được sử dụng để hỗ trợ một số chương trình chính trị nhất định, chẳng hạn như loại trừ phụ nữ khỏi vai trò lãnh đạo hoặc công việc. Một số người cho rằng những phát hiện về khác biệt giới tính chỉ phản ánh những định kiến về giới hơn là những khác biệt thực sự. Một số nhà tâm lý học cho rằng bất kỳ phát hiện nào về sự khác biệt giới tính chỉ phản ánh thành kiến của các nhà khoa học và không phải là mô tả thực tế khách quan. Thật vậy, một số nhà tâm lý học, chẳng hạn như Roy Baumeister, đã ủng hộ việc ngừng nghiên cứu về sự khác biệt giới tính vì những phát hiện về sự khác biệt giới tính có thể mâu thuẫn với lý tưởng của chủ nghĩa quân bình (Baumeister, 1988), mặc dù ông đã đảo ngược quan điểm của mình về điều này (giao tiếp cá nhân, ngày 17 tháng 5, 2006) và đã xuất bản các bài báo về sự khác biệt giới tính. Few topics generate as much controversy as the study of sex differences; “public debates about the nature of women and men are frequently in the spotlight, whether in media reports on the latest sex difference findings or in highly publicized legal cases involving single-sex educational institutions or sexual harassment” (Deaux & LaFrance, 1998, p. 788). Some worry, for example, that findings of sex differences might be used to support certain political agendas, such as excluding women from leadership or work roles. Some argue that findings of sex differences merely reflect gender stereotypes rather than real differences. Some psychologists argue that any discovery of sex differences merely reflects the biases of the scientists and are not objective descriptions of reality. Indeed, some psychologists, such as Roy Baumeister, have advocated stopping research on sex differences because findings of