PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text 1726482704-34_Luận cứ bảo vệ tranh chấp QSDĐ 5.docx


án dân sự sơ thẩm số:25/2011/DSST ngày 20/07/2011của Tòa án nhân dân Huyện N Thành Phố H1 và chuyển hồ sơ về Tòa án nhân dân Huyện N Thành Phố H1 thụ lý giải quyết lại theo thủ tục chung nhưng Tòa án nhân dân Huyện N Thành Phố H1 không tạm đình chỉ giải quyết vụ án để yêu cầu các đương sự tiến hành hòa giải tại UBND xã đúng thành phần theo đúng quy định của Luật đất đai và pháp luật hiện hành.Việc Tòa án nhân dân Huyện N Thành Phố H1 vẩn tiến hành xét xử trên cơ sở Biên bản hòa giải của Uỷ ban nhân dân xã H2,Huyện N,Thành Phố H1 ngày 11/07/2006 không có chữ ký của ông N.V.T1-Chủ tịch UBND xã H2 là vi phạm nhiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự 2.Trích đo hiện trạng vị trí ngày 25/11/2005 thể hiện phần đất đang tranh chấp là“đất ruộng”;Trích đo bản đồ hiện trạng vị trí ngày 25/11/2009(bốn năm sau)thể hiện phần đất đang tranh chấp là“đất ao”và đều này hoàn toàn phù hợp lời khai của ông P.V.L1 và bà T.T.B là ông bà canh tác liên tục từ năm 1983 đến năm 2009 ông T.P.D đưa Kobe vào đào ao nuôi cá và dùng lực lượng công an và chính quyền của UBND xã cưỡng chế không cho bà canh tác(tại phiên tòa phúc thẩm ngày 14/05/2014 ông T.P.D trình bày ông là trưởng công an xã H2,Huyện N vào năm 1979 sau đó làm phó chủ tịch,chủ tịch và bí thư Đảng ủy xã H2,Huyện N và hiện nay ông đang công tác tại Ban dân vận Huyện ủy Huyện N,Thành Phố H1)và trên phần đất có căn nhà của bà T.T.B và ông P.V.L1.Tuy nhiên,Hội đồng định giá do Tòa án nhân dân Huyện N,Thành Phố H1 thành lập và tiến hành định giá vào ngày 30/06/2011không ghi rõ định giá theo Quyết định số:89/2010/QĐ-UBND TP.H1 là giá bao nhiêu trên 01 mét vuông?và chỉ định giá theo giá thị trường là 220.000 đồng /01 mét vuông.Đặc biệt,Hội đồng định giá lại không định giá:giá đất ruộng là bao nhiêu mét vuông?giá đất ao là bao nhiêu mét vuông?và giá đất vường tạp là bao nhiêu mét vuông ?lý do:tại thời điểm định giá phần đất đang tranh chấp đã thay đổi thành“đất ao”và“đất vườn tạp”.Ngoài ra trên phần đất còn có căn nhà của bà T.T.B và ông P.V.L1 nhưng Hội đồng định giá không định giá căn nhà này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự Đặc biệt,theo Biên bản xem xét thẩm định tại chổ ngày 26/11/2012 đã được ghi nhận trong phần nhận định của Bản án sơ thẩm số:153/2013/DSST ngày 15/11/2013 của Tòa án nhân dân Huyện N Thành Phố H1 ghi”Xét:Tại biên bản xem xét thẩm định tại chổ ngya2 26/11/2012 thể hiện toàn bộ phần đất đang tranh chấp hiện do ông D đang trồng cây đước khoảng hai tháng tuổi và trên một đoạn bờ ông D có cất một căn nhà,mái làm bằng dừa,nền lát gạch,cột,kèo bằng cây được hai bên thừa nhận….”.Biên bản định giá ngày 09/01/2013 lại không định giá:cây đước khoảng hai tháng tuổi;một căn nhà,mái làm bằng dừa,nền lát gạch,cột,kèo bằng cây là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự
Về tư cách tham gia tố tụng:Căn cứ vào Điều 32a Bộ luật tố tụng dân sự (nay là Điều 34 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015), Nghị quyết số:60/2011/QH12 ngày 29/03/2011về thi hành luật sửa đổi,bổ sung một số điều Bộ luật Tố tụng dân sự nên cần thiết phải đưa Uỷ ban nhân dân Huyện N Thành Phố H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng Bản án dân sự sơ thẩm số:25/2011/DSST ngày 20/07/2011của Tòa án nhân dân Huyện N Thành Phố H1 không đưa Uỷ ban nhân dân Huyện N Thành Phố H1 vào tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự.Ngoài ra,do xét thấy việc xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất đang tranh chấp UBND xã họp Hội đồng xét cấp và lập danh sách niêm yết tại UBND xã trong hạn luật định và trình danh sách đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với những phần đất không bị khiếu nại để UBND Huyện N ra Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Người có đơn xin cấp giấy,vì vậy nhất thiết phải đưa UBND xã H2 Huyện N Thành Phố H1 vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.Đặc biệt,tại phiên tòa phúc thẩm ngày 14/05/2014 về phần báo cáo danh sách những đương sự có mặt tại phiên tòa,thư ký không nói rõ việc Uỷ ban nhân dân Huyện N Thành Phố H1 vắng mặt có đơn xin vắng mặt không?có tống đạt hợp lệ cho Uỷ ban nhân dân Huyện N Thành Phố H1 để đảm bảo đủ điều kiện đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm không? Về thủ tục ủy quyền tham gia tố tụng:Căn cứ giấy ủy quyền của bà N.T.N2,ông T.P.C1,T.P.C2,bà P.T.Đ và bà P.T.L2 cho ông T.P.D ghi “chỉ ủy quyền cho ông T.P.D tham gia phiên tòa tại Tòa án nhân dân Huyện N Thành Phố H1“và khi Tòa án nhân dân Thành Phố H1 thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm lại không yêu cầu các ông bà:N.T.N2,ông T.P.C1,T.P.C2,bà P.T.Đ và bà P.T.L2 cho ông T.P.D làm giấy ủy quyền cho ông T.P.D được tham gia phiên tòa phúc thẩm tại Tòa án nhân dân Thành Phố H1.Việc Tòa án nhân dân Thành Phố H1 vẩn tiến hành xét xử phúc thẩm và cho ông T.P.D được đại diện theo ủy quyền cho bà N.T.N2,ông T.P.C1,T.P.C2,bà P.T.Đ và bà P.T.L2 tại phiên tòa phúc thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự Về đánh giá chứng cứ:Chúng tôi đã trình bày rõ ông Trấn Phước D khai phần đất đang tranh chấp là do ông mua của ông N.V.C3 ngày 20/04/1993,chúng tôi đã yêu cầu và đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm làm rõ những tài liệu,chứng cứ nào thể hiện phần đất đang tranh chấp là của ông N.V.C3 và đến năm 1993thì bán cho ông T.P.D vì theo Công văn số:91/CV-UB ngày 19/07/2004 của UBND xã H2 Huyện N V/vTrả lời đơn khiếu nại của bà T.T.B”….. Vừa qua vào ngày 15/06/ 2004UBND xã H2 có nhận đơn khiếu nại của bà T.T.B…………Qua quá trình xác minh thực tế khu đất thửa 260,tờ bản đồ số 19,diện tích 2.500 mét vuông/13.728 mét vuông có nguồn gốc như sau:Nguồn gốc phần thửa 260,tờ bản đồ số 19 xã H2,trước đây là đất hoang hóa không có ai canh tác,đến năm 1984 hộ bà T.T.B đến canh tác trồng lúa hai mùa.Năm
1986 hình thành tập đoàn sản xuất nông nghiệp(trồng dừa),đến năm 1988 tập đoàn sản xuất nông nghiệp làm không hiệu quả nên không hoạt động.Đất đai được trả lại cho người dân trực tiếp canh tác.Trong đó có phần thửa 260,tờ bản đồ số 19,diện tích 2,500 mét vuông/13.728 mét vuông,được giao cho hộ ông N.V.C3,ngụ tại ấp 3 xã H2 sử dụng.Đến năm 1993 ông N.V.C3 nhượng lại cho ông T.P.D trực tiếp canh tác từ năm 1993 đến nay.ông D được UBND Huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 26/08/1998”.Căn cứ Công văn số:91/CV-UB ngày 19/07/2004 xác định rõ hộ bà T.T.B khai hoang phục hóa “khu đất thửa 260,tờ bản đồ số 19,diện tích 2.500 mét vuông/13.728 mét vuông có nguồn gốc như sau:Nguồn gốc phần thửa 260,tờ bản đồ số 19 xã H2..”, năm 1986 hình thành tập đoàn bà T.T.B đưa ruộng vào tập đoàn,năm 1988”tập đoàn sản xuất nông nghiệp làm không hiệu quả nên không hoạt động.Đất đai được trả lại cho người dân trực tiếp canh tác..”và người trực tiếp canh tác ở đây phải là hộ bà T.T.B nhưng UBND xã H2”đánh lận con đen”thành Người trực tiếp canh tác là ông N.V.C3 là người mà phần đầu khi xác minh không có một thông tin nào liên quan việc canh tác phần đất thuộc thửa:260,tờ bản đồ số 19,diện tích 2.500 mét vuông/13.728 mét vuông.Ngoài ra trong hồ sơ vụ án và tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm chúng tôi đã nhiều lần cung cấp cho Hội đồng xét xử các tài liệu chứng cứ và yêu cầu được làm rõ nhưng vẩn không được Hội đồng xét xử xem xét,cụ thể: 1.Yêu cầu làm rõ nội dung mâu thuẩn của Công văn số: 91/CV-UB ngày 19/07/2004 của UBND xã H2 Huyện N Thành Phố H1 2.Về nguồn gốc đất:Chúng tôi đã cung cấp cho Hội đồng xét xử các cấp:Giấychứng nhận diện tích canh tác ngày 22/07/1983;Tờ khai diện tích khoán cho cá nhân,đơn vị ngày 20/10/1097;Thông báo số thuế nông nghiệp phải nộp ngày 22/12/1987 trong đó ghi rõ người thông báo là ông T.V.N3 và ông T.V.N3 có ký xác nhận ngày 30/12/1987 tập đoàn có nhận là:280 kg(hai tám không).Điều này hoàn toàn mâu thuẩn với lời trình bày làm chứng của chính ông T.V.N3 tại các phiên tòa nhưng không được Hội đồng xét xử xem xét.Đặc biệt,trong hồ sơ có giấy ghi ý kiến của ông N.V.C3 đề ngày 23/09/2009 với nội dung”….. Cháu Năm D,anh với chú hồi đến nay không mích lòng, chú có với ủy ban mà thôi,ngày xưa anh có bán cho chú 04 công nhỏ(bằng 2600 mét vuông) mà thôi, anh đề suy nghĩ lại cái gò còn lại nên trả cho em gì không có bao nhiêu mà mất đoàn kết ruột thịt “và cái “Gò“ông N.V.C3 trình bày chính là cái “Gò dâm”gần phần đất bà B.T.T2 và theo bản đồ vị trí ngày tỷ lệ 1/2000(theo tài liệu 02/CT-UB và bảng chỉ dẩn diện tích thì thửa 260 gồm:260-1diện tích:8832.0 mét vuông, thửa 260-2 diện tích:2732.7 mét vuông,thửa 260-3 diện tích:1735.0 mét vuông và các thửa:260-4 và thửa 260-5) và thửa đất ông T.P.D khia do cha mẹ cho là thửa:260-1diện tích:8832.0 mét vuông và thửa ông N.V.C3 bán cho ông T.P.D và ý kiến của ông N.V.C3 trong giấy tay xác nhận ngày 23/09/2009 là thửa:thửa 260-3 diện tích:1735.0 mét vuông và thửa bà T.T.B và ông

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.