Nội dung text Chap 19: Rối loạn nhân cách .docx
TIẾP CẬN ĐIỀU CHỈNH - THE ADJUSTMENT DOMAIN Chap 19: Rối loạn nhân cách - Disorders of Personality Miễn trừ trách nhiệm: Tài liệu này được dịch thuật với mục đích phục vụ cho khóa học trực tuyến miễn phí: “Tâm lý học Tính cách - Personality Psychology” do PsyMe.org tổ chức cho cộng đồng. Mọi nội dung trong tài liệu này chỉ được sử dụng cho mục đích học tập trong khóa học, không nhằm mục đích thương mại. Mọi hình thức sao chép, trích dẫn hoặc chia sẻ, phát tán tài liệu này dưới bất kỳ hình thức nào ra bên ngoài phạm vi khóa học đều không được PsyMe cho phép. PsyMe không chịu trách nhiệm về bất kỳ tranh chấp nào phát sinh liên quan đến việc sử dụng tài liệu này vượt quá phạm vi đã đề cập ở trên.
MỤC LỤC MỤC LỤC 2 1. Nền tảng cơ bản của các rối loạn nhân cách / The Building Blocks of Personality Disorders 5 2. Khái niệm rối loạn / The Concept of Disorder 9 2.1 Bất thường là gì/What Is Abnormal? 11 2.2 Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần /The Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders 13 2.3 Rối loạn nhân cách là gì / What Is a Personality Disorder? 16 3. Các rối loạn nhân cách cụ thể / Specific Personality Disorders 21 3.1 Nhóm thất thường: Những kiểu bạo lực hoặc cảm xúc không thể đoán trước / The Erratic Cluster: Ways of Being Unpredictable, Violent, or Emotional 21 3.1.1 Rối loạn nhân cách chống xã hội/ Antisocial Personality Disorder 23 3.1.2 Rối loạn nhân cách ranh giới / Borderline Personality Disorder 31 3.1.3 Rối loạn nhân cách dạng kịch tính / Histrionic Personality Disorder 39 3.1.4 Rối loạn nhân cách dạng ái kỷ/ Narcissistic Personality Disorder 45 3.2 Nhóm lập dị: Những kiểu khác người / The Eccentric Cluster: Ways of Being Different 49 3.2.1 Rối loạn nhân cách dạng phân liệt xa lánh / Schizoid Personality Disorder 50 3.2.2 Rối loạn nhân cách dạng phân liệt hoang tưởng / Schizotypal Personality Disorder 52 3.2.3 Rối loạn nhân cách hoang tưởng/ Paranoid Personality Disorder 55 3.3 Nhóm lo âu: Những kiểu lo âu, sợ hãi hoặc đau khổ / The Anxious Cluster: Ways of Being Nervous, Fearful, or Distressed 57 3.3.1 Rối loạn nhân cách tránh né/ Avoidant Personality Disorder 58 3.3.2 Rối loạn tính cách phụ thuộc / Dependent Personality Disorder 60 3.3.3 Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế / Obsessive-Compulsive Personality Disorder 62 4. Độ phổ biến của các rối loạn nhân cách / Prevalence of Personality Disorders 74 Sự khác biệt về Giới trong Rối loạn Nhân cách / Gender Differences in Personality Disorders 76 5. Các mô hình xu hướng rối loạn nhân cách / Dimensional Model of Personality Disorders 78 6. Nguyên nhân rối loạn nhân cách / Causes of Personality Disorders 80 7. Tóm tắt và đánh giá / Summary and Evaluation 85 8. Thuật ngữ chính / Key Terms 87
Kody Scott lớn lên ở Trung tâm Nam Los Angeles. Năm 12 tuổi, anh gia nhập băng đảng đường phố Eight-Tray Gangster CRIPS. Anh ta đã bị bắt vào đêm bắn nạn nhân đầu tiên của. Anh ta tiếp tục có biệt danh "Quái vật" vì những hành động bạo lực nghiêm trọng mà anh ta gây ra cho mọi người. Ví dụ, khi còn là một thiếu niên, Kody đã đánh đập dã man một nạn nhân cố gắng chống cự trong lúc bị Kody cố gắng bóp chết. Kody đã đánh đập quá mức cần thiết để nạn nhân phải phục tùng. Thực tế là Kody dường như rất thích làm tổn thương người khác. Kody Scott grew up in South Central Los Angeles. When he was 12 years old, he was initiated into the Eight-Tray Gangster CRIPS street gang. He shot his first victim the night he was initiated. He went on to earn the nickname “Monster” for particularly violent beatings he inflicted on people. For example, as a young teenager, Kody severely beat a victim who resisted when Kody attempted to mug him. Kody beat him far beyond what was necessary to make the victim submit. In fact, Kody seemed to enjoy hurting other people. Cha ruột của Kody là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp mà mẹ anh đã có một mối tình ngắn ngủi. Mẹ anh có một cuộc hôn nhân bất ổn và bạo lực với cha dượng, người đã bỏ nhà đi khi Kody mới 6 tuổi. Mẹ của Kody đã nuôi dạy sáu đứa con trong một ngôi nhà hai phòng ngủ ở một khu ổ chuột có nhiều băng đảng. Kody’s biological father was a professional football player with whom his mother had had a brief affair. His mother had an unstable and violent marriage with Kody’s stepfather, who left the home for good when Kody was six. Kody’s mother raised her six children in a two-bedroom house in a gang-infested ghetto neighborhood. Kody là một cậu bé thông minh và cơ bắp, thích cảm giác mạnh và phấn khích. Anh có thể đã trở thành một vận động viên chuyên nghiệp, hoặc thành công trong một nghề mạo hiểm và nhiều hoạt động, chẳng hạn như là một cảnh sát, một người lính, hoặc thậm chí có thể là một phi hành gia. Thay vào đó, Kody lớn lên trở thành Quái vật, một người bạo lực, không sợ gì cả, không có cảm giác tội lỗi hay hối hận, và khao khát sự phấn khích. Kody was an intelligent and muscular boy who enjoyed thrills and excitement. He might have gone on to become a professional athlete, or he could have succeeded in a career involving adventure and plenty of action, such as a policeman, a soldier, or maybe even an astronaut. Instead, Kody grew up to become Monster, a violent individual who feared nothing, had no feelings of guilt or remorse, and craved excitement. Kody Scott, a.k.a. “Monster,” in Pelican Bay prison in 1993, photographed through Plexiglas. His autobiography, which he wrote while in solitary confinement, provides a real-life account of the mind of a person with antisocial personality disorder. © Susan Ragan/AP Images
Kody Scott là một trong những tay trùm xã hội đen khét tiếng nhất ở South Central L.A. Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, anh khao khát trở thành thành viên đáng sợ nhất của băng CRIPS. Anh ta đi tù năm 1993, thụ án 7 năm vì bắn vào xương bánh chè của một tên buôn ma túy. Ở trong tù, anh ta bị coi là mối đe dọa tối đa đối với an ninh và bị giam giữ tránh xa các tù nhân khác. Anh đã viết cuốn tự truyện của mình, Monster: The Autobiography of an L.A. Gang Member, trong khi bị biệt giam ở nhà tù San Quentin, dưới tên Sanyika Shakur (1994), cũng là tên trang Facebook của anh. Ngay cả khi đã trở nên nổi tiếng với cuốn sách bán được hơn 100.000 bản, Kody Scott vẫn không thể thoát khỏi văn hóa băng đảng hay tính cách bạo lực của chính mình. Năm 2007, bị cảnh sát LA truy nã vì vi phạm lệnh tạm tha, Scott lại bị bắt, lần này vì tấn công một người quen, lấy chìa khóa chiếc Jaguar của anh ta và để lại hiện trường trong xe của nạn nhân. Vào tháng 5 năm 2008, Kody Scott, 44 tuổi, bị kết tội cướp xe và cướp tài sản và bị kết án sáu năm nữa trong nhà tù bang Pelican Bay. Anh được phóng thích sớm hai năm, vào năm 2012, và năm 2013 đã xuất bản một cuốn sách luận. Chúng tôi mở đầu chương này với trường hợp của Kody Scott (hay còn gọi là Sanyika Shakur) vì anh ta minh họa một trong những chứng rối loạn nhân cách: rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Trên thực tế, cuốn sách “Monster” của anh là một góc nhìn rõ ràng về tâm trí và những gì diễn ra bên trong của một kẻ mắc chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Kody Scott was one of the most notorious gangbangers in South Central L.A. For the early part of his life, he aspired to be the most feared member of the CRIPS. He was sent to prison in 1993 to serve a seven-year sentence for shooting a drug dealer in the kneecaps. In prison, he was classed as a maximum threat to security and was housed away from other inmates. He wrote his autobiography, Monster: The Autobiography of an L.A. Gang Member, while in solitary confinement in San Quentin prison, under the name Sanyika Shakur (1994), which is also the name of his Facebook page. Even after attaining celebrity status for his book, which sold over 100,000 copies, Kody Scott could not escape the gang culture or his own violent personality. In 2007, already wanted by the L.A. police for parole violations, Scott was arrested again, this time for beating an acquaintance, taking the keys to his Jaguar, and leaving the scene in the victim’s vehicle. In May of 2008, Kody Scott, age 44, was convicted of carjacking and robbery and sentenced to another six years in Pelican Bay State Prison. He was released two years early, in 2012, and it 2013 published a book of essays. We open this chapter with the case of Kody Scott (aka Sanyika Shakur) because he illustrates one of the personality disorders: the antisocial personality disorder. In fact, his book “Monster” is an articulate look into the mind and inner workings of a sociopath. 1. Nền tảng cơ bản của các rối loạn nhân cách / The Building Blocks of Personality Disorders