Nội dung text Chương 25 Hở van ba lá 0807-0835_1729606873_Bs Phồn.pdf
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 810 Hở van ba l· ĐỊNH NGHĨA Van ba lá bình thường đóng lại trong thời kỳ tâm thu, ngăn máu chảy ngược trở lại tâm nhĩ phải khi tâm thất co lại. Hở van ba lá (TR) hoặc hở van ba lá được ghi nhận khi máu bị đẩy ngược trở lại tâm nhĩ phải trong thời kỳ tâm thu (Hình 25.1). TR là một hiện tượng huyết động học được phát hiện bằng cách đánh giá màu, Doppler phổ hoặc Doppler màu chế độ M. TR có thể được tìm thấy ở thai nhi từ 11 tuần tuổi thai cho đến khi đủ tháng (1-4). Hình 25.1: Hình vẽ sơ đồ đại diện (A, B) và hình ảnh bốn buồng tim trên Doppler màu, ở bốn thai nhi (C-F) bị hở van ba lá (TR) (mũi tên mở), cho thấy sự giãn nở không gian của tia hở van ba lá. Các bảng trên (A, C, D) cho thấy TR từ nhẹ đến trung bình với một tia mỏng nhỏ không lấp đầy toàn bộ tâm nhĩ phải (RA). Lưu ý rằng chiều rộng của tia ở mức van, được gọi là vena contracta, là nhỏ. Các bảng dưới (B, E, F) cho thấy TR nghiêm trọng với các tia rộng lớn ở mức van đang mở rộng để lấp đầy gần như toàn bộ RA. Mức độ nghiêm trọng có thể được ước tính chủ quan trên Doppler màu nhưng cần có Doppler phổ để định lượng khách quan. LA, tâm nhĩ trái; LV, tâm thất trái; RV, tâm thất phải C H Ư Ơ N G 2 5
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 811 TR có thể không đáng kể và không có tác động lâm sàng ngắn hạn hoặc dài hạn nhưng cũng có thể nghiêm trọng, dẫn đến suy tim và tử vong ở thai nhi hoặc trẻ sơ sinh. TR thay đổi về thời lượng trong thời kỳ tâm thu và vận tốc đỉnh của tia hồi lưu. Mô tả chính xác và định lượng TR là rất quan trọng để hiểu rõ sinh lý bệnh và ý nghĩa lâm sàng của nó. Trong chương này, chúng tôi sẽ mô tả các đặc điểm của TR và báo cáo về các thực thể căn nguyên tim và ngoài tim khác nhau có liên quan đến TR. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỞ VAN BA L£ TR là một phát hiện khá phổ biến trong quá trình siêu âm tim ở thai nhi, trẻ sơ sinh và người lớn (3,5). Không có định nghĩa, tiêu chuẩn hóa hoặc phân loại rõ ràng về TR ở thai nhi và hầu hết kinh nghiệm trước khi sinh được điều chỉnh từ các quan sát và khuyến nghị sau khi sinh trong siêu âm tim nhi khoa và người lớn (5,6). Mở rộng khÙng gian của TR trÍn Doppler m‡u Nói chung, TR được hình dung bằng Doppler màu và tỷ lệ hiện mắc của nó đã tăng lên trong những năm gần đây cùng với độ nhạy Doppler màu được tăng cường của thiết bị siêu âm hiện đại. Người ta thường cho rằng các tia màu lớn hơn, kéo dài sâu vào tâm nhĩ phải, đại diện cho TR nhiều hơn so với các tia mỏng nhỏ hơn được hình dung ngay sau các lá van ba lá. Một số phương pháp tiếp cận đã được thực hiện để định lượng các tia Doppler màu của TR. Mức độ TR có thể được đánh giá trên Doppler màu bằng chiều rộng của tia ở mức van ba lá, được gọi là vena contracta, và mức độ của tia trong tâm nhĩ phải (Hình 25.1), có thể được định lượng bằng chiều dài tia trong tâm nhĩ phải và/hoặc diện tích tâm nhĩ phải mà nó bao phủ. Trong hai nghiên cứu, chiều dài của tia vào tâm nhĩ phải, liên quan đến khoảng cách đến thành tâm nhĩ đối diện, được phân loại trên Doppler màu thành bốn mức độ nghiêm trọng: nhẹ (chiều dài tia < 1/3), nhẹ đến trung bình (chiều dài tia
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 812 từ 1/3 đến 2/3), trung bình (chiều dài tia > 2/3, không chạm tới thành đối diện) và nặng (tia chạm tới thành tâm nhĩ đối diện) (1,3). Hơn nữa, diện tích tâm nhĩ phải được bao phủ bởi tia cũng có thể đánh giá mức độ nghiêm trọng của nó, với TR nhẹ khi diện tích bao phủ nhỏ hơn 25%, TR trung bình khi diện tích bao phủ nhỏ hơn 50% và TR nặng khi diện tích bao phủ lớn hơn 50% (1,3). Mức độ nghiÍm trọng của TR trÍn Doppler phổ Không phụ thuộc vào hình ảnh Doppler màu, điều quan trọng là phải định lượng mức độ nghiêm trọng của TR trong thời kỳ tâm thu bằng cách sử dụng Doppler phổ xung hoặc sóng liên tục. Theo hiểu biết của chúng tôi, không có định nghĩa rõ ràng về mức độ nghiêm trọng của TR trên Doppler phổ ở thai nhi. Các tác giả dựa vào vận tốc đỉnh của tia hồi lưu làm tiêu chí về mức độ nghiêm trọng. TR nhẹ được định nghĩa là TR có vận tốc đỉnh từ 30 đến 100 cm/giây, TR trung bình có vận tốc đỉnh từ 100 đến 200 cm/giây và TR nặng có vận tốc đỉnh cao hơn 200 cm/giây (Hình 25.2). Việc đánh giá Doppler phổ của TR cũng nên xem xét thời lượng của TR trong thời kỳ tâm thu, được thảo luận trong phần sau của chương này. Hình 25.2: Mức độ nghiêm trọng của hở van ba lá (TR) được đánh giá lý tưởng bằng Doppler phổ với phép đo vận tốc đỉnh (hoặc gradient áp lực) của tia hồi lưu. Trong bảng A, TR nhẹ được hiển thị với vận tốc đỉnh nhỏ hơn 70 cm/giây (mũi tên). Trong bảng B, TR trung bình được hiển thị với vận tốc đỉnh gần bằng 200 cm/giây (mũi tên) và trong bảng C, TR nặng được hiển thị với vận tốc đỉnh đạt 380 cm/giây (mũi tên). Đầu dò đặc biệt với Doppler sóng liên tục có thể cần thiết để đo vận tốc Doppler cao để tránh hiện tượng răng cưa. Một cách tiếp cận lâm sàng về mức độ nghiêm trọng của TR cũng có thể được sử dụng ở thai nhi, trong
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 813 tương tự với phân loại sau sinh về mức độ nghiêm trọng của TR ở bệnh nhân, bằng cách dựa vào việc họ có triệu chứng hay không có triệu chứng khi nghỉ ngơi (6). Ở thai nhi, cách tiếp cận lâm sàng hơn có thể xem xét TR nhẹ khi không thấy giãn tâm nhĩ phải hoặc tim (tỷ lệ tim ngực), TR trung bình khi tim to hiện diện mà không có phù thai và TR nặng khi suy tim hiện diện với phù thai. Cần lưu ý rằng tâm thất phải ở thai nhi không giãn nở như sau khi sinh và TR có thể nhanh chóng phát triển với sự mất ổn định huyết động. Mặt khác, ngay cả TR nặng cũng có thể được dung nạp tốt ở thai nhi, vì dòng máu hồi lưu có thể thoát ra khỏi tâm nhĩ phải qua lỗ bầu dục về phía bên trái của tim. Trong mọi trường hợp TR từ trung bình đến nặng, chúng tôi khuyên bạn nên lấy mẫu ống tĩnh mạch rốn vì mạch đập cao hoặc dòng chảy ngược có thể xảy ra trước khi thai nhi bị phù thai và tử vong. Thời lượng của TR trong thời kỳ t‚m thu Khi tia TR bị giới hạn ở đầu tâm thu hoặc giữa tâm thu, thì TR được gọi là đầu tâm thu hoặc giữa tâm thu, tương ứng (Hình 25.3A). TR có thể xảy ra trong toàn bộ thời gian tâm thu và do đó được gọi là toàn tâm thu (Hình 25.3B). Thời lượng của TR trong thời kỳ tâm thu được đánh giá lý tưởng bằng Doppler phổ nhưng việc sử dụng Doppler màu chế độ M cũng có thể được sử dụng để đánh giá thời lượng của nó (Hình 25.4) (1) (Chương 15). Doppler màu kết hợp với vòng lặp cine có thể được sử dụng để đánh giá thời lượng TR và người ta đã báo cáo rằng phương pháp này có thể phân biệt giữa TR đầu và TR đầu đến giữa tâm thu (3). Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng việc đánh giá như vậy đòi hỏi sự nhất quán về thiết bị và cài đặt trước màu sắc, do đó rất khó so sánh giữa c·c phÚng siêu âm. Do đó, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Doppler phổ để đánh giá thời lượng của TR trong thời kỳ tâm thu (1).