Nội dung text Chủ nghĩa xã hội khoa học .pdf
Hỗ trợ Sinh viên Bách Khoa CLB Hỗ Trợ Học Tập Câu hỏi ôn tập - Chủ nghĩa xã hội khoa học Học kỳ 2023.1 Lưu ý: Khi làm bài thi, trình bày các ý thành đoạn văn nhỏ, không gạch đầu dòng. Tài liệu chỉ sử dụng với mục đích ôn tập, sử dụng vào mục đích khác, CLB không chịu trách nhiệm. 1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học 2. Vai trò của C.Mác và Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học. 3. Nhưng điều kiện khách quan và chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. 4. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội? 5. Khái niệm dân tộc và cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin. 6. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất, nguồn gốc và nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH? 7. Phân tích các chức năng cơ bản của gia đình? 1
Hỗ trợ Sinh viên Bách Khoa CLB Hỗ Trợ Học Tập I CNXHKH là gì? Hoàn cảnh lịch sử ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học 1 Định nghĩa của CNXHKH Theo nghĩa rộng: Chủ nghĩa xã hội khoa học là chủ nghĩa Mác- Lênin, luận giải từ các giác độ triết học, kinh tế học chính trị và chính trị- xã hội về sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Theo nghĩa hẹp: Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác - Lênin. 2 Phân tích điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời CNXHKH Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ tạo nên nền đại công nghiệp. Nền đại công nghiệp cơ khí làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có bước phát triển vượt bậc, dẫn tới bộc lộ mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản : Về kinh tế: Cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành ở nước Anh, bắt đầu chuyển sang nước Pháp và Đức làm xuất hiện một lực lượng sản xuất mới, đó là nền đại công nghiệp. Nền đại công nghiệp phát triển đã làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có bước phát triển vượt bậc.Sự chuyên môn hoá càng cao trong sản xuất (mỗi thành phần của sản phẩm làm bởi một bộ phận) dẫn đến sự xã hội hoá càng cao (cả thế giới cùng làm 1 sản phẩm). Tuy nhiên sự phát triển mạnh của cách mạng công nghiệp tạo ra khủng hoảng xã hội về thừa sản phẩm sản xuất ra và thiếu nguyên liệu đầu vào. Hậu quả làm cho kinh tế dần trở nên suy thoái, thất nghiệp ngày càng cao. Mâu thuẫn ngày càng quyết liệt giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện ra bên ngoài bằng các cuộc khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ (1825, 1836, 1846,1857) đây là bằng chứng cho sự mâu thuẫn của phương thức sản xuất TBCN đã trở nên gay gắt không thể tự điều tiết bằng các học thuyết kinh tế đương thời. Về xã hội: Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản đã trở nên gay gắt, bộc lộ ra thành các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân: Cuộc đấu tranh của công nhân dệt Lyon (Pháp) 1831 và 1834, Cuộc đấu tranh của công nhân dệt Xilêdi (Đức) 1844, Phong trào Hiến chương Anh kéo dài hơn 10 năm từ 1836 - 1848. Các cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản diễn ra ở các nước tư bản phát triển, chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp ( Anh, Pháp, Đức) Các phong trào đấu tranh đã thể hiện giai cấp công nhân đã trường thành phát triển cả về số lượng và chất lượng, họ trở thành một lực lượng chính trị xã hội độc lập, lần đầu tiên họ đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản với tư cách là một giai cấp để đòi hỏi những lợi ích về kinh tế và chính trị. Tuy nhiên những phong trào này chỉ dừng lại là những hình thức đấu tranh tự phát và bị thất bại. Sự phát triển nhanh chóng có tính chính trị công khai của phong trào công nhân đã minh chứng, lần đầu tiên, giai cấp công nhân đã xuất hiện như một lực lượng chính trị độc lập với những yêu sách kinh tế, 2
Hỗ trợ Sinh viên Bách Khoa CLB Hỗ Trợ Học Tập chính trị riêng của mình và đã bắt đầu hướng thẳng mũi nhọn của cuộc đấu tranh vào kẻ thù chính của mình là giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh giai cấp công nhân tất yếu sẽ dẫn đến một yêu cầu mới, yêu cầu phải có một lý luận khoa học dẫn đường, để đưa giai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự phát tới đấu tranh tự giác vì lợi ích của giai cấp mình. Đây chính là yêu cầu khách quan để các nhà tư tưởng nghiên cứu tổng kết thực tiễn cho ra đời lý luận CNXHKH Như vậy, sự ra đời của CNXHKH đã đáp ứng được yêu cầu phát triển của phong trào công nhân. Điều kiện kinh tế - xã hội chính là mảnh đất hiện thực cho sự ra đời của CNXHKH. 3 Phân tích tiền đề khoa học tự nhiên và tư tưởng – lý luận cho sự ra đời CNXHKH 3.1 Tiền đề khoa học tự nhiên Cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội, tạo nền tảng cho phát triển tư duy lý luận. Trong khoa học tự nhiên, những phát minh vạch thời đại trong vật lý học và sinh học đã tạo ra bước phát triển đột phá có tính cách mạng: Học thuyết tiến hóa; Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng; Học thuyết tế bào. • Thuyết tế bào, phát minh vào những năm 1838-1839 của nhà thực vật học người Đức M.J. Schlei- den. (1804-1881) và nhà vật lý học người Đức Th.Schwann (1810-1882) Việc ra đời thuyết tế bào đã giúp cho con người bác bỏ những quan điểm siêu hình khi nhận thức tách biệt, biệt lập về mối quan hệ giữa thế giới động vật và thực vật. Đồng thời, chính sự ra đời của thuyết tế bào đã giúp cho các nhà khoa học thấy được sự thống nhất trong sự đa dạng của sinh giới, mối quan hệ biện chứng của thế giới sinh vật sống (động vật và thực vật) đều bắt đầu từ 1 tế bào đầu tiên. Đây là cơ sở để hình thành phương pháp tư duy biện chứng trong nghiên cứu về giới tự nhiên và cơ sở tiền đề cho học thuyết tiến hóa của Darwin. Đây là 1 trong 3 luận điểm quan trọng của triết học DVBC chứng minh sinh giới được tạo ra từ ngẫu sinh hóa học và tiến hóa lâu dài chứ không phải do bất kỳ 1 lực lượng siêu nhiên nào. • Thuyết tiến hóa, phát minh năm 1859 của Charles Darwin người Anh (1809-1882) Việc ra đời của thuyết tiến hóa đã phát hiện ý nghĩa của chọn lọc tự nhiên giúp con người thoát khỏi quan điểm duy tâm thần học đã tồn tại trước đó khi lý giải về nguồn gốc của loài người và thế giới vật chất. Đồng thời, thuyết tiến hóa của Charles Darwin đã giúp cho các nhà triết học nghiên cứu sự phát triển của thế giới vật chất theo quan điểm duy vật biện chứng và đưa ra một cách lý giải về sự phát triển của loài người là một quá trình phát triển tuân theo quy luật tự nhiên. • Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, phát minh vào khoảng 1842-1845 do M.V.Lômônôxốp người Nga (1711-1765) và Mayer (1814-1878) 3