PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text Các-kỹ-thuật-ghép-mỡ-tự-thân-1.pdf

2 Các kỹ thuật ghép mỡ tự thân Hans-Oliver Rennekampff, Christian Herold Norbert Heine, and Klaus Ueberreiter 6 6.1 Cấy mỡ sử dụng phương pháp Cole- man Hans Oliver Rennekampff and Christian Her- old Cấy mỡ tự thân theo Coleman là một kỹ thuật mở, được Coleman giới thiệu vào năm 1988 [1]. Quy trình nhiều bước có thể được chia thành ba giai đoạn [2] được trình bày trong Bảng 6.1. Việc hút huyền phù chất béo được thực hiện bằng kỹ thuật tumescence, trong đó lượng dung dịch bơm vào phải tương ứng với lượng chất béo được lấy ra. Cuối cùng, một kim cùn 11G (khoảng 3 mm) có hai lỗ (Hình 6.1), gắn vào một ống tiêm 10 mL, được đưa vào mô dưới da thông qua một vết rạch. Bằng cách nhẹ nhàng kéo pít- tông lên tạo ra áp suất âm, qua đó từng phần mỡ nhỏ được hút vào ống tiêm. Tùy thuộc vào lực kéo pít tông, có thể tạo ra áp suất âm lên đến 0,52 bar [3]. • Coleman khuyến nghị tăng thêm 1–2 cm3 khi hút mỡ. Ngay sau khi hút đủ lượng mỡ, các ống tiêm được đóng lại và được ly tâm trong các hộp chứa vô trùng trong máy ly tâm (ví dụ như Medilite, Mentor, v.v.) trong 3 phút với tốc độ 3000 vòng / phút (Hình 6.2). Điều này tương ứng với một lực hấp dẫn là 920 g. Coleman không khuyến khích sử dụng lực cao hơn, vì mô có thể bị tổn hại [2]. Trong quá trình ly tâm, phải hết sức chú ý đến việc duy trì sự vô trùng (quy trình mở). Thông thường, sau ly tâm sẽ hình thành ba lớp. Lớp trên cùng bao gồm chất béo tự do từ các tế bào mỡ bị phá hủy; lớp dưới là máu, lidocain và dung dịch Ringer cũng như mảnh Bảng 6.1 Quy trình cấy mỡ tự thân theo kỹ thuật Coleman Giai đoạn I Hút huyền phù mỡ II Xử lý III Trả lại mỡ nguyên chất vụn và lớp giữa chứa mô mỡ (Hình 6.3). Trong các bước tiếp theo, lớp dầu được hút ra ngoài, có thể loại bỏ cặn bằng cách sử dụng bông thấm (Hình 6.4). Chất lỏng còn lại phía trên được thoát ra khỏi đáy ống tiêm (Hình 6.5). Hình. 6.1 Kim hút Coleman Phần mỡ tinh khiết còn lại được đưa vào một ống tiêm 1 mL với sự hỗ trợ của khớp nối và sẵn sàng cho quá trình bơm trở lại cơ thể (Hình 6.6). Cấy huyền phù mỡ được thực hiện trong kỹ thuật Coleman bằng các kim Coleman I, II hoặc III, có đường kính 14 hoặc 16G (Men- tor) (Hình 6.7). • Kỹ thuật Coleman hiện là kỹ thuật được sử dụng rộng rãi nhất và được coi là tiêu chuẩn tham chiếu ngay cả trong các ấn phẩm khoa học.
3 Hình 6.2 Máy ly tâm Hettich Hình. 6.3 Ba lớp sau ly tâm yến nghị cho các mảnh ghép nhỏ. Các bài báo được xuất bản bởi Salinas et al. [5] chỉ ra phân tách bằng gạc vô trùng có thể cô đặc huyền phù đến 90%. 6.2 Các phương pháp cấy mỡ khác Hans Oliver Rennekampff và Christian Herold 6.2.1 Tách bằng gạc vô trùng Việc trải rộng dịch hút lên các miếng gạc vô trùng là một kỹ thuật tiết kiệm chi phí đã được sử dụng. Điều này là do không cần thiết bị nào khác ngoại trừ kim hút, ống dẫn lưu và gạc vô trùng. Thậm chí, việc lọc có thể được thực hiện bằng cách chỉ sử dụng kim hút và ống dẫn lưu. Chấn thương cơ học và tiếp xúc với không khí trong phòng được coi là những bất lợi tiềm ẩn. Trong một thử nghiệm, hàm lượng tế bào gốc của mô ghép mỡ cao hơn và khả năng sống sót lớn của mô ghép trên chuột chống lại kỹ thuật dùng bộ lọc và kỹ thuật Coleman [4]. Nhưng thời gian tiến hành lâu hơn được cho là một bất lợi, do đó, kỹ thuật này chỉ được khu
4 Hình. 6.4 Bỏ lớp dầu Hình. 6.5 Bỏ lớp dung dịch 6.2.2 Hệ thống lọc 6.2.2.1 Quy trình Shippert Hệ thống shippert - Tissu-Trans Filtron - Công nghệ Shippert - Marketingv của Đức thông qua Asclepios Medizintechnik Kỹ thuật hút và lọc huyền phù chất béo này được Ron D. Shippert giới thiệu vào năm 2006 [6]. Lấy mỡ theo kỹ thuật Shippert là một quy trình hút và xử lý khép kín. Hệ thống Ship- pert (Tissu-Trans Filtron, Shippert Medical Technologies) bao gồm một ống hút lumen lớn và bình thu lọc có dung tích khác nhau (100 mL, 300 mL, 500 mL, 1200 mL,2000 mL; Hình 6.8). Đặc điểm của hệ thống Tissu-Trans Fitron - Hệ thống ống lumen lớn - Hút tiêu chuẩn áp lực thấp - Không ly tâm - Hệ thống lọc 800 μm để loại các mảnh vụn, dầu và chất lỏng - Có thể tiến hành rửa - Tránh cấy mỡ mở (theo [6]) Sử dụng lực hút áp lực âm trong kỹ thuật tumescence, kim thường có đường kính lên đến 3 mm và khác cách hút mỡ cổ điển. R. D. Shippert khuyến nghị dùng áp suất khoảng −250 đến −500 mmHg. Các bình tiếp nhận có chức năng lọc tích hợp với đường kính lỗ lọc 800 μm (Hình 6.9). Qua đó, người ta có thể tách dầu, nước và
5 Hình. 6.6 Mỡ tinh khiết Hình. 6.7 Kim Coleman, type I các chất hòa tan như epinephrine. Sau khi hút được lượng mỡ cần thiết nó được đi qua đầu nối vô trùng vào các ống tiêm có thể tích nhỏ (Hình 6.10). Shippert chỉ ra một số yếu tố không mong muốn đã được loại bỏ nhờ thiết kế của hệ thống ống và bộ lọc (xem Tóm tắt). Do đó, các ống mềm kích thước lớn giúp dịch lọc không bị ảnh hưởng. Do không cần phải quay ly tâm nên không cần nhân viên để điều khiển các máy ly tâm. Ngoài ra còn rút ngắn thời gian chờ ly tâm. Cũng không cần khuấy hoặc lọc mô mỡ. • Vì đây là một hệ thống khép kín, nên mọi khả năng ô nhiễm qua không khí hoặc con người được loại trừ tuyệt đối. So với các kỹ thuật hút thủ công khác, có thể lấy được dịch hút mỡ nhờ Hệ thống Tissu-Trans Filtron trong điều kiện áp suất hằng định và có thể tái tạo. Phương pháp Tissu-Trans Filtron được sử dụng để lấy dịch hút trong các điều kiện tiêu chuẩn, ví dụ: cho các nghiên cứu lâm sàng yêu cầu lấy mô trong các điều kiện độc lập với ng- hiên cứu. Các nghiên cứu riêng lẻ [7] phân tích sự phân phối chất béo tự do (dầu), huyền phù chất béo và dịch lỏng cho thấy lớp mỡ chiếm trung bình 85% thể tích hút ra ban đầu sau 1 giờ (Hình 6.11). Ngay cả sau khi thử nghiệm ly tâm bổ sung, tỷ lệ mỡ được ghi lại là 75–80% (dữ liệu riêng). Phần dung dịch lỏng chứa tỷ lệ cao các yếu tố tăng trưởng và adipocytokine. Chất lỏng còn sót lại trong dịch hút cần được cân nhắc trong quá trình cấy mỡ tự thân. Sau thời gian chờ 60 phút, không phát hiện được lượng dầu đáng kể nào trong các mẫu nghiên cứu. Gần đây, Fisher và cộng sự đã chỉ ra một giá trị cực kỳ thấp có thể so sánh được đối với phần dầu còn lại là 1%. [4]. Thử nghiệm giữa dịch hút bằng Hệ thống Shippert và dịch hút được xử lý trong các tế bào riêng lẻ, không có sự khác biệt đáng kể so với các kỹ thuật lọc khác [8](Hình 6.12). Các hạt mỡ lấy bằng phương pháp Ship- pert có đường kính 3 mm trong công trình được thực hiện bởi Fisher và cộng sự. [4], kích thước trung bình của phần đã lọc phải loại bỏ là 300 μm. Fisher và cộng sự hầu như không tìm thấy bất kỳ tế bào sống nào mà chủ yếu là các mảnh vụn trong phần dầu-nước bị loại bỏ sau khi sử dụng Hệ thống Shippert. Một câu hỏi mở là liệu kích thước bộ lọc của Hệ thống Shippert là 800 μm có thể hiện sự tối ưu theo quan điểm ngày nay hay không. Câu hỏi này cần phải khảo sát kỹ lưỡng vì ngay cả các hạt mỡ quan trọng có kích thước khoảng 300 μm đã được mô tả là tối ưu trong các mô hình in vivo thực nghiệm [9]. Ý nghĩa Ưu điểm của Hệ thống Tissu-Trans Fil- tron là một hệ thống vòng lặp kín xử lý đơn giản: vào cuối quá trình hút, chúng ta có huyền phù chất béo đã lọc và còn lại một lượng chất lỏng chứa một yếu tố tăng trưởng cho quá trình cấy. Người vận hành chỉ cần hút cơ học giống hút thủ công trong kỹ thuật Coleman sẽ thu được khối lượng lớn.

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.