Nội dung text Chapter 1: Introduction to Cognitive Psychology
TÂM LÝ HỌC NHẬN THỨC CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU VỀ TÂM LÝ HỌC NHẬN THỨC Dịch thuật: Mạnh Dũng, Chi Hiệu đính: Hiền Miễn trừ trách nhiệm: Tài liệu này được dịch thuật với mục đích phục vụ cho khóa học trực tuyến miễn phí: “ Tâm lý học Nhận thức - Cognitive Psychology” do PsyMe.org tổ chức cho cộng đồng. Mọi nội dung trong tài liệu này chỉ được sử dụng cho mục đích học tập trong khóa học, không nhằm mục đích thương mại. Mọi hình thức sao chép, trích dẫn hoặc chia sẻ, phát tán tài liệu này dưới bất kỳ hình thức nào ra bên ngoài phạm vi khóa học đều không được PsyMe cho phép. PsyMe không chịu trách nhiệm về bất kỳ tranh chấp nào phát sinh liên quan đến việc sử dụng tài liệu này vượt quá phạm vi đã đề cập ở trên.
SOME QUESTIONS WE WILL CONSIDER ◗ How is cognitive psychology relevant to everyday experience? (5) ◗ How is it possible to study the inner workings of the mind when we can’t really see the mind directly? (7) ◗ What was the cognitive revolution? (13 It's been 16 years since the accident. Sam, lying in the long-term care facility, has been in a coma ever since. Observing Sam, who shows no signs of awareness or ability to communicate, it seems reasonable to conclude that “there’s nobody in there.” But is that true? Does the fact that Sam hasn’t moved or responded to stimulation mean he doesn’t have a mind? Is there any probability that his eyes, which appear to be vacantly staring into space, could be perceiving, and that these perceptions might be accompanied by thoughts? Một số câu hỏi sẽ được đề cập: + Tâm lý học Nhận thức liên kết với đời sống ra sao? + Làm thế nào để tìm hiểu về hoạt động của tâm trí mặc dù không thể quan sát trực tiếp ? + Cách mạng nhận thức là gì? Đã được 16 năm kể từ vụ tai nạn, Sam vẫn nằm trong cơ sở chăm sóc dài hạn. Trong lúc quan sát Sam, người không hề cho thấy dấu hiệu của nhận thức và khả năng giao tiếp, đủ để kết luận rằng "không có ai ở trong thân xác đó". Nhưng liệu điều đó có đúng? Với sự thật rằng Sam không hề chuyển động hoặc phản ứng với kích thích từ bên ngoài, liệu có thể nói rằng tâm trí của anh ấy không hề tồn tại? Có khả năng nào mà đôi mắt của anh ấy dường như đang nhìn lơ đãng vào không gian, có thể tri giác được và những tri giác này có thể đi kèm với những suy nghĩ không? These are the questions Lorina Naci and coworkers (2014, 2015) were asking when they placed Sam in a brain scanner that measured increases and decreases in electrical activity throughout his brain, and then showed him an 8-minute excerpt from an Alfred Hitchcock television program called “Bang. You’re Dead.” At the beginning, a 5-year-old boy is playing with his toy gun. But then he discovers a real gun and some bullets in his uncle’s suitcase. The boy loads one bullet into the gun, spins the chamber that contains the single bullet, and shoves the weapon into his toy-gun holster. Đó là những câu hỏi mà Lorina Naci cùng các đồng nghiệp (2014,2015) đã luôn tự hỏi từ lúc đưa Sam vào máy quét não bộ đo lường biến động trong sóng não của anh ấy, sau đó cho anh ta xem 1 trích đoạn 8 phút của bộ phim "Bang, You're Dead." được đạo diễn bởi Alfred Hitchcock. Trong đoạn đầu, một cậu nhóc 5 tuổi đang nghịch khẩu súng đồ chơi nhưng sau đó cậu phát hiện một khẩu súng thật và một vài viên đạn trong vali của chú mình. Cậu bé nạp một viên đạn vào súng, xoay khoang chứa viên đạn duy nhất và nhét vũ khí vào bao đựng súng đồ chơi của mình.
As the boy roams the neighborhood, pointing the gun at a number of different people, the tension mounts. He points the gun at someone! He pulls the trigger! The gun doesn’t fire because the single bullet isn’t in the firing chamber. But thoughts such as “Will the gun go off?” and “Will someone be killed?” are racing through the viewers’ minds, knowing that the boy’s “play” could, at any moment, turn tragic. (There was a reason Hitchcock was called “the master of suspense.”) In the last scene, back at the boy’s house, the boy’s father, realizing that he is pointing a real gun, lunges toward the boy. The gun fires! A mirror shatters. Luckily, no one is hurt. The boy’s father grabs the gun, and the audience breathes a sigh of relief. Sự căng thẳng gia tăng khi cậu đi quanh khu phố với khẩu súng thật trên tay chĩa vào mọi người. Cậu chĩa súng! Cậu kéo cò! Viên đạn chưa bắn vì vẫn chưa được đưa lên nòng súng. Những dòng suy nghĩ như "Liệu cậu bé có nổ súng không ?" và "Sẽ có ai chết không?" xoay lộn trong tâm trí của những người chứng kiến biết rằng "cuộc chơi" của cậu có thể trở thành thảm họa bất cứ lúc nào. (Phải có lý do mà Hitchcock được mọi người biết tới với cái tên là "bậc thầy của sự hồi hộp.") Trong cảnh cuối cùng, trở lại nhà của cậu bé, người cha của cậu bé nhận ra rằng cậu đang cầm một khẩu súng thật và lao về phía cậu bé. Súng nổ! Một tấm gương vỡ tan. May mắn thay, không ai bị thương. Người cha của cậu bé giật lấy khẩu súng và khán giả thở phào nhẹ nhõm. When this film was shown to healthy participants in the scanner, their brain activity increased and decreased at the same time for all of the participants, with changes in brain activity being linked to what was happening in the movie. Activity was highest at suspenseful moments in the film, such as when the child was loading the gun or pointing it at someone. So the viewer’s brains weren’t just responding to the images on the screen; their brain activity was being driven both by the images and by the movie’s plot. And— here’s the important point—to understand the plot, it is necessary to understand things that weren’t specifically presented in the movie, like “guns are dangerous when loaded,” “guns can kill people,” and “a 5-year-old boy may not be aware that he could accidentally kill someone.” Khi bộ phim này được chiếu cho những người tham gia khỏe mạnh, trong máy quét hoạt động não của họ tăng và giảm cùng một lúc đối với tất cả người tham gia, với những thay đổi trong hoạt động não liên kết với những gì đang xảy ra trong phim. Hoạt động não cao nhất ở những khoảnh khắc hồi hộp trong phim, như khi đứa trẻ đang nạp đạn vào súng hoặc chỉ súng vào ai đó. Vì vậy, não của người xem không chỉ phản ứng với hình ảnh trên màn hình mà còn được thúc đẩy cả bởi hình ảnh và cốt truyện của bộ phim. Và đây là điểm quan trọng để hiểu được cốt truyện, cần phải hiểu những điều không được trình bày cụ thể trong phim, như "súng rất nguy hiểm khi đã nạp đạn," "súng có thể giết người," và "một đứa trẻ 5 tuổi có thể không nhận thức được rằng mình có thể vô tình giết chết ai đó. So, how did Sam’s brain respond to the movie? Amazingly, his response was the same as the healthy participants’ responses: brain activity increased during periods of tension and decreased when danger wasn’t imminent. This indicates that Sam was not only seeing the images and hearing the soundtrack, but that he was reacting to the movie’s plot! His brain activity therefore indicated that Sam was consciously aware; that “someone was in there.”