PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text B 495.922.15 ĐHQN.Giáo Trình Ngữ Âm Tiếng Việt Hiện Đại - Võ Xuân Hảo, 116 Trang.pdf

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN ---o0o--- VÕ XUÂN HÀO GIÁO TRÌNH NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI Quy Nhơn, 2009
1 MỤC LỤC Mục lục 1 Chương 1. Ngữ âm và ngữ âm học 2 1.1. Ngữ âm và kiến trúc ngữ âm 2 1.2. Cơ sở của ngữ âm 5 1.3. Ngữ âm học và âm vị học 8 Chương 2. Các đơn vị ngữ âm 13 2.1. Âm tiết 13 2.2. Âm tố và âm vị 15 2.3. Thanh điệu, trọng âm và ngữ điệu 19 Chương 3. Lý thuyết syllabeme và cơ cấu âm tiết tiếng Việt 23 3.1. Lý thuyết syllabeme 23 3.2. Đặc điểm của âm tiết và khả năng phân xuất âm tiết tiếng Việt 27 3.3. Xác định số lượng âm tiết tiếng Việt 34 Chương 4. Thanh điệu tiếng Việt 37 4.1. Thanh điệu và quy luật phân bố của thanh điệu tiếng Việt 37 4.2. Thanh điệu với chức năng khu biệt nghĩa 43 4.3. Thanh điệu với chức năng thể hiện nghĩa gợi tả 54 4.4. Thanh điệu với hình thức ngữ âm của từ ngữ 58 Chương 5. Các đơn vị ngữ âm đoạn tính 70 5.1. Hệ thống âm đầu 70 5.2. Hệ thống âm đệm 76 5.3. Hệ thống âm chính 79 5.4. Hệ thống âm cuối 91 Chương 6. Chính âm, chữ viết, chính tả 98 6.1. Chính âm 98 6.2. Chữ viết 103 6.3. Chính tả 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
2 Chương 1 NGỮ ÂM VÀ NGỮ ÂM HỌC Ngữ âm học là một chuyên ngành của ngôn ngữ học nghiên cứu về tiếng nói của con người. Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, người nói và người nghe muốn hiểu nhau thì phải thực hiện quá trình phát tin và nhận tin. Phương tiện dùng để phát tin và nhận tin đó chính là âm thanh ngôn ngữ-ngữ âm. Âm thanh ngôn ngữ là âm thanh do bộ máy cấu tạo âm thanh của con người tạo ra, nó có nghĩa và được sử dụng làm phương tiện giao tiếp. Âm thanh con người sử dụng làm phương tiện giao tiếp là một thực thể hiện hữu bao gồm hai mặt: mặt xã hội và mặt cá nhân. Chuyên ngành nào sẽ nghiên cứu về các mặt đó? Âm thanh ngôn ngữ được được xây dựng trên những cơ sở nào, sắp xếp theo quy luật, quy tắc nào? Những câu hỏi cụ thể này sẽ được giải đáp ở Chương 1 theo các chủ đề: Chủ đề 1: Ngữ âm và kiến trúc ngữ âm. Chủ đề 2: Cơ sở của ngữ âm. Chủ đề 3: Ngữ âm học và âm vị học. Mục tiêu của chương này là giúp sinh viên nắm vững các khái niệm cơ bản của ngữ âm học, xác định được đối tượng nghiên cứu, làm tiền đề cho việc nghiên cứu những nội dung liên quan ở các chương sau. 1.1. Ngữ âm và kiến trúc ngữ âm 1.1.1. Ngữ âm Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Nhưng ngôn ngữ là cái gì đó rất trừu tượng. Trong thực tiễn của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, cái mà các nhân vật tham gia vào hoạt động giao tiếp - người nói và người nghe - có thể tri giác được bằng thính giác không phải là cái gì trừu tượng, vô hình mà phải là một cái rất cụ thể. Cụ thể đến mức khi vắng mặt các nhân vật giao tiếp nhưng nhờ thường xuyên tiếp xúc với cái âm thanh cụ thể ấy, quen với nó mà ta có ấn tượng về nó, ghi nhớ và khắc sâu nên ta có thể nhận ra được cái âm thamh cụ thể ấy là tiếng nói của ai? Người ấy thuộc vùng phương ngữ nào? Giọng nói ấy có sức truyền cảm và tác động đến người nghe như thế nào?,... Như vậy, phương tiện giao tiếp ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: Thứ nhất, đó là phương tiện giao tiếp ở dạng tiềm năng, tồn tại trong đầu óc của mỗi con người: ngôn ngữ. Thứ hai, đó là phương tiện giao tiếp ở dạng hiện thực, cụ thể, sinh động tồn tại trong thực tiễn của đời sống giao tiếp: lời nói - sản phẩm của hoạt động ngôn ngữ. Ngôn ngữ được coi là “nguyên liệu” còn lời nói được coi như là sản phẩm do cá nhân tạo ra từ nguyên liệu chung ấy. Giữa nguyên liệu và sản phẩm được chế ra từ nguyên liệu có mối quan hệ gắn bó mật thiết nhưng không đồng nhất với nhau. Đề cập đến vấn đề này, người ta thường nhắc đến F. de. Saussure (1857-1913), nhà ngôn ngữ học người Thuỵ Sĩ. Trước thời F. de. Saussure mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói đã được đặt ra nhưng người có công lớn nhất trong việc phân định ngôn ngữ và lời nói là F. de. Saussure. Trong
3 “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” (1916) - một giáo trình ngôn ngữ học nổi tiếng do hai học trò của ông là Charler Bally và Albert Sechehaye sưu tầm từ những bài giảng và vở ghi của các thế hệ sinh viên biên soạn lại, lấy tên của thầy mình có đoạn viết: “Ngôn ngữ tồn tại trong tập thể dưới dạng thức một tổng thể những dấu vết đọng lại trong mỗi bộ óc, đại loại như một pho từ điển mà tất cả bản in vốn giống hệt nhau, được phân phối cho từng cá nhân,... Lời nói có mặt trong tập thể ấy như thế nào? Nó là cái tổng thể của những điều mà người ta nói, và gồm có: a. những cách kết hợp của cá nhân tuỳ theo ý của những người nói, b. Những hành động phát âm cũng tuỳ ý như vậy cần thiết cho việc thực hiện những cách kết hợp này.” [119; 45-46]. Theo F. de. Saussure, chúng ta cần phải phân biệt ngôn ngữ và lời nói bởi ngôn ngữ và lời nói có những điểm tương đồng nhưng cũng có những nét khác biệt. Cụ thể là: - Chúng đều là những hình thức tồn tại của tiếng nói con người. Nghĩa là, tiếng nói con người tồn tại dưới hai hình thức: Ngôn ngữ (dạng trừu tượng) và lời nói (dạng cụ thể). - Ngôn ngữ và lời nói đều được cộng đồng người sử dụng, được xã hội chấp nhận. Nhưng đồng thời nó cũng có những điểm khác biệt. Trong “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” F. de. Saussure viết: “Tách ngôn ngữ ra khỏi lời nói, người ta đồng thời cũng tách luôn: Cái gì có tính chất xã hội với cái gì có tính chất cá nhân; cái gì có tính chất cốt yếu với cái gì có tính chất thứ yếu và ít nhiều ngẫu nhiên. Ngôn ngữ không phải là một công năng của người nói, nó là sản phẩm mà cá nhân ghi lại một cách thụ động,... Ngược lại, lời nói là một hành động cá nhân do ý chí và trí tuệ chi phối, trong đó nên phân biệt: 1. Những cách kết hợp mà người nói dùng theo quy phạm của ngôn ngữ để biểu đạt ý nghĩ riêng của mình; 2. Cái cơ chế tâm lý - vật lý cho phép người ấy thể hiện những cách kết hợp ấy ra ngoài” [119; 37]. Từ những tư tưởng trên, chúng ta có thể rút ra những điểm khác biệt cơ bản giữa ngôn ngữ và lời nói: - Ngôn ngữ có tính chất xã hội còn lời nói có tính chất cá nhân. - Ngôn ngữ có tính chất cốt yếu còn lời nói có tính chất thứ yếu và ít nhiều ngẫu nhiên. - Nếu như trong lời nói bao giờ cũng bao gồm 4 mặt: mặt xã hội, mặt vật lý, mặt sinh lý và tâm lý thì trong ngôn ngữ chỉ có mặt xã hội vì nó là tài sản chung của cả cộng đồng. - Vì là sản phẩm của xã hội nên ngôn ngữ là một hiện tượng biến đổi cực kỳ chậm chạp và mỗi lần có sự biến đổi thì buộc phải có sự đồng ý và thống nhất một cách tự giác của mọi thành viên trong cộng đồng, xã hội. Điều này đòi hỏi phải có thời gian thẩm định của cộng đồng, xã hội. Ngược lại, lời nói là một hiện tượng biến đổi thường xuyên và nhanh chóng bởi nó phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của từng cá nhân. Chính vì thế, ngôn ngữ bao giờ cũng mang tính ổn định còn lời nói thì không ổn định. - Ngôn ngữ là một hiện tượng khái quát và trừu tượng và chỉ có khả năng nhận thức qua các khái niệm, các mô hình cấu trúc ngôn ngữ. Còn lời nói thì ngược lại, có tính chất cụ thể, có thể nhận thức được một cách trực giác bằng thính giác. Mặc dù có những sự khác nhau như vậy nhưng ngôn ngữ và lời nói luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Mối quan hệ này được nối kết nhờ hoạt động ngôn ngữ. Lời

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.