PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text BAI TỔNG QUAN VỀ TLH TÍCH CỰC.pdf


nhân cách,tình cảm thẩm mĩ, sự kiên trì, sự tha thứ, tính độc đáo, tài năng , sự thông tuệ * Những thể chế tích cực thúc đẩy sự thịnh vượng và nuôi dưỡng ý thức cộng đồng. làm cho cá nhân thành công dân tốt và đạo đức công dân: tinh thần trách nhiệm, lòng khoan dung sự điều độ, sự lễ độ, lòng vị tha, công việc từ thiện. II) CÁC TƯ TƯỞNG VỀ TÂM LÝ TÍCH CỰC TRONG LỊCH SỬ Tâm lý học tích cực là sự gặp gỡ của tư tưởng phương Đông, chẳng hạn như Phật giáo và các phương pháp tiếp cận tâm động học phương Tây A/ Các tư tưởng trong triết học phương Tây về hạnh phúc và thịnh vượng Hạnh phúc theo chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa khoái lạc đều có nền tảng triết học cụ thể xuất phát từ truyền thống Hy Lạp: chủ nghĩa khoái lạc chắc chắn liên quan nhiều hơn đến cách tiếp cận của Aristotle, ngoài ra chủ nghĩa khoái lạc liên kết nhiều hơn với các lý thuyết của Aristippus và Epicurus (Ryff & Singer, 2008). Theo triết lý khoái lạc, hạnh phúc có thể được định nghĩa là tổng số niềm vui được trải nghiệm trong cuộc sống. Tương tự như vậy, các nhà triết học sử thi đã đánh đồng hạnh phúc với “niềm vui trong sự yên tĩnh”, “và tránh đau đớn” (aponia). Triết học đương đại đề cập nghiêm ngặt đến cách tiếp cận này của Hy Lạp, bằng cách khẳng định nguyên tắc vị lợi. Họ cho rằng “nhờ nỗ lực của cá nhân để tối đa hóa niềm vui và lợi ích cá nhân, xã hội tốt đẹp được phát triển và duy trì”. Nhà triết học cổ đại khác như Aristotle, Plato và Socrates tuyên bố rằng: “hạnh phúc là một điều gì đó cao quý hơn, và lập luận rằng niềm vui đến từ việc thực hiện các đức tính của cá nhân, trong một quá trình tự nhận thức” *Thông điệp sâu sắc hơn của Aristotle về các đức tính là nó liên quan đến việc đạt được điều tốt nhất bên trong mỗi cá nhân, tùy theo khả năng riêng của mình=>Thành tựu này dẫn đến hạnh phúc. Kết luận: Do đó, những người có tính cách đạo đức, tham gia vào các hành động có chủ ý được lựa chọn để tránh thái quá hoặc thiếu sót, cho dù đó là cực đoan của niềm vui hay nỗi đau, sợ hãi hoặc sự tự tin, sự phù phiếm hoặc khiêm tốn. Cuối cùng, việc theo đuổi hạnh phúc có thể quá duy ngã và chủ nghĩa cá nhân đến mức không còn chỗ cho sự kết nối giữa con người với lợi ích xã hội. Tâm lý học tích cực được tìm thấy trong những lời dạy của Aristotle: khái niệm eudaimonia (một từ tiếng Hy Lạp dịch theo nghĩa đen là trạng thái hoặc điều kiện của tinh thần tốt) thường được dịch bằng tiếng Anh

C/Hai khái niệm về hạnh phúc : HẠNH PHÚC CHỦ QUAN VÀ KHOÁI LẠC Nghiên cứu tâm lý xã hội về hạnh phúc đã bị chi phối bởi hai cách tiếp cận trái ngược nhau: cách tiếp cận khoái lạc/chủ quan dựa trên quan điểm tâm lý học. 1/ Hạnh phúc khóai lạc đề cập đến chất lượng cuộc sống bắt nguồn từ sự phát triển những tiềm năng tốt nhất của một người và ứng dụng của chúng trong việc hoàn thành các mục tiêu phù hợp trên phương diện cá nhân (Sheldon, 2002). 2/Hạnh phúc chủ quan (Hedonic well being) được xác định bởi niềm vui hoặc trải nghiệm tình cảm và thường được vận hành như sự hiện diện của những cảm xúc tích cực và sự hài lòng trong cuộc sống, và sự vắng mặt của những cảm xúc tiêu cực (Diener et al., 2018).Hạnh phúc chủ quan nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cá nhân đánh giá cuộc sống của họ, trong hai lĩnh vực : tình cảm (cảm xúc) và nhận thức (Diener et al., 1999 ). - Hạnh phúc chủ quan định nghĩa trải nghiệm cảm xúc tích cực hơn cảm xúc tiêu cực và sự hài lòng trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống(Diener et al., 1999). Quan điểm hạnh phúc chủ quan => Phù hợp với các giá trị và đặc tính cốt lõi của văn hóa phương Tây, cụ thể là tính hiện đại tự do, chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa cá nhân lãng mạn (Joshanloo, 2013). Do đó, trong xã hội phương Tây đương đại, hạnh phúc được định nghĩa bởi sự vắng mặt khổ đau/hiện diện của niềm vui và những cảm xúc tích cực (Kahneman et al., 1999). Công cụ đo lường về quan điểm hạnh phúc chủ quan 1/ Ảnh hưởng đến sự cân bằng ( ABS; Bradburn 1969) 2/ Thang đo ảnh hưởng tích cực và tiêu cực (PA.NA.S, Watson et.al., 1988 ) 3/ Chỉ số hài lòng với cuộc sống (LSI; Neugarten et.al.,1961) 4 /Sự hài lòng với cuộc sống (SWLS; Diener et.a.,1985) 5/ Chỉ số hạnh phúc cá nhân (PWBI; Cumíns, Eckersley, Van Pallant, Van Vugt, and Misajon, 2003) 6/ Thang đo hạnh phúc chủ quan (SHS; Lyubomirski & Lepper, 1999) D/ CÁC TƯ TƯỞNG TRONG TLH NHÂN VĂN, TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG VÀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU ĐÒNG GÓP CHO TÂM LÝ HỌC TÍCH CỰC 1/ Tâm lý học nhân văn và hiện sinh Tâm lý học nhân văn đề xuất các khái niệm như tự nhận thức và tự thực hiện là mục tiêu trị liệu (Rogers, 1961 ).

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.