Nội dung text 7. Bản án số 01/2023/LĐ-PT ngày 14/02/2023 của TAND TP. Cần Thơ V/v “Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THÀNH PHỐ CẦN THƠ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Bản án số: 01/2023/LĐ-PT Ngày: 14.02.2023 V/v: “Tranh chấp “xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải” NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ - Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Hà Thị Phương Thanh Các Thẩm phán: Ông Trần Tuấn Quốc Ông Võ Bảo Anh - Thư ký phiên tòa: Ông Huỳnh Minh Thông – Thư ký Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ. - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ: Bà Đồng Thị Thanh Nga – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Ngày 14 tháng 02 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2022/TLPT-LĐ ngày 07 tháng 11 năm 2022 về việc “Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải”. Do bản án lao động sơ thẩm số 06/2022/LĐ-ST ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân quận C bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 46/2022/QĐ-PT ngày 08 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự: 1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ; sinh năm: 1976. Địa chỉ: T, phường P, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên lạc tại Cần Thơ: HTX X. Địa chỉ: T, phường P, quận O, thành phố Cần Thơ (Kho lạnh T) (vắng mặt). Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Ngô Hồng T; sinh năm: 1974. Địa chỉ: G, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ - văn bản ủy quyền ngày 10/01/2022 (có mặt). Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Văn Đ – Văn phòng Luật sư T – Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ (có mặt). 2. Bị đơn: Cty TNHH MTV A (A). Trụ sở: phường T, quận C, thành phố Cần Thơ. Đại diện pháp luật: Ông M - Chủ tịch Công ty.
2 Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Lạc Thị Tú D. Địa chỉ: K, Phường P, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh - văn bản ủy quyền ngày 03/12/2021 (có mặt). Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn: - Luật sư Nguyễn Thị H; Luật sư Nguyễn Hồng Minh T - Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T – Đoàn luật sư thành phố Cần Thơ. (Luật sư T vắng mặt). - Luật sư Lưu Tiến D - Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn T - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội (có mặt). 3. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn Đ là nguyên đơn. NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ trình bày nội dung và yêu cầu khởi kiện như sau: Ông Nguyễn Văn Đ và Cty TNHH MTV A – sau đây viết tắt là Công ty A (trước đây là Công ty Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên A Lâm Đồng) có ký hợp đồng lao động vào ngày 01/9/2009, thời hạn là 03 năm, mức lương chính là 19.850.000đ/tháng. Sau nhiều lần bổ sung phụ lục hợp đồng, ngày 16/7/2012 ông Đ được bổ nhiệm làm Giám đốc điều hành Công ty A. Quá trình thực hiện hợp đồng lao động từ năm 2012 đến 2018 có ký nhiều phụ lục hợp đồng để tăng lương. Ngày 21/12/2018, ký phụ lục hợp đồng lao động số PL/HĐLĐ/A.01090901.1.8 với thay đổi, bổ sung mức lương chính từ 107.000.000đ/tháng thành 117.700.000đ/tháng. Ngày 01/7/2019, ký Phụ lục hợp đồng lao động số PL/HĐLĐ/A.01090901.1.9 với mức lương chính 117.700.000 đồng/tháng đổi thành lương căn bản là 29.800.000đ/tháng và lương hiệu suất kinh doanh là 87.900.000đ/tháng. Hàng tháng ông Đ vẫn thực nhận lương là 117.700.000đ/tháng. Ngày 17/01/2020, Công ty A ra Quyết định số CV.A.170120.01 tạm đình chỉ công việc ông Đ với lý do ông Đ vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm nội quy lao động của Công ty. Cụ thể: - Thông đồng với đối tác, thiếu minh bạch làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích kinh tế và uy tín của Công ty. - Thiếu năng lực quản lý, cố tình làm ngơ cho nhiều thuộc cấp sai phạm, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, lợi ích của Công ty. - Thành lập Công ty riêng, cùng ngành nghề với A trong thời gian đình chỉ công việc để điều tra.
3 Tuy nhiên, Công ty A không có văn bản, giấy tờ, chứng cứ nào chứng minh sai phạm của ông Đ như đã đưa ra trước đó. Đến ngày 17/02/2020, Công ty A tiếp tục ban hành Quyết định đình chỉ chức vụ đối với ông Đ số CV.A.170220.01, đình chỉ chức vụ giám đốc của ông Đ, không cho ông Đ làm gì hết; vì vậy, tuy quan hệ lao động của ông Đ với Công ty chưa chấm dứt nhưng từ đó về sau, ông Đ không thể đến Công ty làm việc. Ngày 22/04/2020, phía A gửi công văn số CV.A.220420.02 mời ông Đ tham dự cuộc họp xử lý kỷ luật lao động đối với ông Đ vì cho rằng ông Đ vi phạm nội quy lao động và gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, lợi ích của Công ty A. Ngày 01/5/2020, ông Đ đã gửỉ văn bản đến Công ty A để báo rằng ông đã nhận được thư mời xử lý kỷ luật của A nhưng ông không tham gia và yêu cầu phía Công ty A dừng ngay tất cả việc phỉ báng, vu khống, tố cáo thông đồng và các hành vi không tuân thủ chưa được phía Công ty A chứng minh trực tiếp bằng lời nói hay bằng suy luận. Nếu không chấm dứt các hành động trên thì ông Đ sẽ kiện Công ty A ra toà theo quy định của pháp luật hiện hành. Từ ngày Công ty A nhận được thư của ông Đ, ông Đ không nhận được sự phản hồi từ phía Công ty A. Sau đó, ngày 03/6/2020, Công ty A gửi thư mời ông Đ đến Công ty bàn giao tài sản, hoàn thành thủ tục thanh lý hợp đồng và nhận sổ bảo hiểm nhưng do Công A chưa làm rõ và chưa chứng minh được những vi phạm mà Công ty A đã áp đặt cho ông nên ông Đ không tham gia cuộc họp. Trước đó, ngày 17/01/2020, phía Công ty A đã có quyết định tạm đình chỉ công tác đối với ông Đ và 03 người lao động khác của công ty. Ngoài việc tạm đình chỉ công việc đối với ông Đ, ông Đ còn nghe nói Công ty A đã ban hành quyết định kỷ luật lao động bằng hình thức sa thải đối với ông Đ nhưng ông không nhận được bất kỳ văn bản hay quyết định sa thải nào và cũng không hề ký nhận văn bản nào từ phía Công ty A. Theo ông Đ, Quyết định xử lý kỷ luật lao động sa thải ông Đ số A.QDST.12052020.02 ngày 12/05/2020 của Công ty A đã ban hành không đúng quy định của pháp luật. Cụ thể: 1. Về hình thức: Quyết định kỷ luật sa thải ông Đ do người không có thẩm quyền là ông Phan Thượng M – Giám đốc điều hành Công ty ký là không đúng thẩm quyền, vi phạm khoản 1 Điều 3 và khoản 4 Điều 30 Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật
4 Lao Động (được sửa đổi, bổ sung tại điểm 1 và điểm 12 Điều 1 Nghị định 148/2018/NĐ-CP ngày 24/10/2018 của Chính phủ) do ông M không phải là đại diện pháp luật của Công ty. Đại diện ủy quyền chỉ được kỷ luật hình thức khiển trách. 2. Về nội dung: Nếu ông Đ có hành vi vi phạm thì cũng không thuộc các trường hợp được áp dụng tại Điều 126 Bộ luật Lao động năm 2012 do Công ty đã đình chỉ chức vụ giám đốc của ông Đ nên việc ông Đ thành lập HTX X là không vi phạm vì trên thị trường có rất nhiều công ty khác cũng kinh doanh cùng ngành nghề với Công ty A; ngoài ra, Công ty A chưa chứng minh được A bị mất một hợp đồng nào từ phía Hợp tác xã của ông Đ. Việc ông Đ thu mua cam không đúng chất lượng, nguồn gốc bên ngoài với giá cao hơn nhưng Công ty A không có lô hàng nào bị trả về và báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty A là có lãi, không có bị thua lỗ trong giai đoạn ông Đ làm giám đốc nên không có thiệt hại xảy ra. Việc ông Đ ký kết “Bản ghi nhớ hợp tác liên kết phát triển vùng nguyên liệu cây ăn trái đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thị trường Châu Âu” ngày 03/10/2019 với Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hậu Giang (MOU) thì Bản ghi nhớ này chỉ đem lại lợi ích cho công ty, không có thiệt hại gì cho công ty. Hơn nữa, bản ghi nhớ này cũng chưa thực hiện. Đối với việc công ty cho rằng ông Đ làm thiệt hại cho Công ty là không có, trong báo cáo tài chính của Công ty thể hiện có lợi nhuận khi ông Đ điều hành Công ty, thể hiện qua Vi bằng số 646/2021/VB-TPL ngày 20/12/2021. Ngoài ra, trước khi Công ty ra Quyết định kỷ luật ông Đ, ngày 02/01/2020, Công ty A đã ra Quyết định bổ nhiệm ông Phan Thượng M từ vị trí Giám đốc Dịch vụ lên vị trí của ông Đ là Giám đốc Điều hành; cho thấy, Công ty đã có sự sắp xếp trước đó, thể hiện qua Vi bằng số 301/2022/VB-TPL ngày 26/4/2022. Do đó, ông Đ yêu cầu Tòa án: 1. Hủy Quyết định xử lý kỷ luật lao động sa thải số A.QDST.12052020.02 ngày 12/05/2020 của Cty TNHH MTV A đối với ông. 2. Buộc phía Công ty A có nghĩa vụ: 2.1 Thanh toán tiền lương những ngày ông Đ không được làm việc từ ngày 13/5/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm, với mức lương là 117.700.000đ/tháng; tạm tính là 27 tháng 13 ngày, thành tiền là: 3.228.903.333đ;