Nội dung text A 230_DAN NHAP THAN HOC 1_PHAMTHANHLIEM.pdf
2 Nói chung, các giáo phụ tây phương không dùng từ ngữ “thần học”; tuy vậy có lần thánh Augustin (354-430) đã dùng từ ngữ “thần học chân thực” (vera theologia) khi muốn hướng dân ngoại về với Kitô giáo; nhưng ngoài lần đó ra, ngài không dùng từ ngữ “thần học” để chỉ giáo lý chân thực về Thiên Chúa lần nào nữa12[12]. Phêrô Abélard (1079-1142) là người đầu tiên hay dùng từ ngữ “thần học” theo nghĩa Kitô giáo. Tuy nhiên với Abélard cũng như trong truyền thống thần học Byzantin, từ ngữ thần học được dùng để chỉ giáo trình về Thiên Chúa; còn các mầu nhiệm của đức Kitô gọi là Beneficia, chứ không gọi là theologia như chúng ta ngày nay13[13]. Các giáo phụ và những thần học gia của Giáo Hội tây phương thời đó đã dùng từ ngữ Doctrina Christiana (thánh Augustin), Sacra Scriptura, Sacra Eruditio, Sacra Pagina hay Divina Pagina để chỉ điều gọi là thần học ngày nay14[14]. Sau Abélard, từ ngữ “thần học” vẫn chưa được dùng phổ biến, và người ta vẫn dùng từ Doctrina Christiana của thánh Augustin để chỉ Sacra Doctrina; điều này kéo dài ở thế kỷ XII và thậm chí đến sau thời thánh Thomas nữa15[15]. Thánh Thomas cũng ít khi dùng “thần học” như từ ngữ đồng nghĩa với Sacra Doctrina16[16]; ngài phân biệt “thần học triết lý” (theologia philosophica) và “thần học Kinh Thánh” (theologia sacrae scripturae)17[17]. Sự phân biệt này không giống chúng ta phân biệt giữa thần học và thần lý học (théodicée), nhưng một bên là lời dạy của triết học ngoại đạo về Thiên Chúa, và bên kia là lời dạy của Kitô giáo, hàm chứa cả thần học như chúng ta hiểu bây giờ18[18]. Từ thời giữa thánh Thomas và Scot, “thần học” được dùng nhiều và trở thành từ ngữ chuyên biệt để chỉ Sacra Doctrina; thần học “suy lý” đề nghị dùng từ “thần học” (theologia) thay thế cho từ ngữ “học thuyết thánh” (Sacra Doctrina). Điều này cho thấy khía cạnh suy lý, lập luận được đề cao nơi thần học kinh viện19[19]. Tóm kết “Thần học”, theo tiếng Hy Lạp gồm hai từ “Qeoj” và “logia”, là “những lời về Thiên Chúa”. 12[12] AUGUSTIN, De Civitate Dei, VI, 8 (PL. 41, 186) Y. CONGAR, op. cit., p. 126 E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 81 13[13] Y. CONGAR, op. cit., p. 126 E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 81 Y. Congar trích dẫn J. RIVIÈRE, art. “Theologia”, trong RSRUS, 16, 1936, pp. 47-57, cho rằng từ ngữ “thần học” lúc đó chưa dùng để chỉ một môn khoa học, mà để chỉ nội dung tác phẩm bàn về toàn bộ các tín điều Kitô giáo. Mãi tới thế kỷ XIII, “thần học” mới xuất hiện trong danh sách các môn học trường lớp. 14[14] Y. CONGAR, op. cit., p. 126 15[15] E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 81 16[16] ST. THOMAS, In I Sent., Prol., 4, obj. 2 in contr. In Ep. ad Rom., Prol. In Boeth. De Trin., q. 2, a. 3, ad 7 Trong những trường hợp dùng từ ngữ “thần học”, từ ngữ này thường được hiểu với nghĩa sermo de Deo (cf. S.T. I, q. 1, a. 7, note c). Do chịu ảnh hưởng của Aristote, Thomas còn dùng từ ngữ “thần học” để nói về môn siêu hình, thậm chí còn dùng cả từ ngữ scientia divina để chỉ môn này (In Boeth. De Trin., q. 5, a. 1) cf. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 82 17[17] In Boeth. De Trin., q. 5, a. 4 và S.T. I, q. 1, a. 1, ad 2 18[18] St. THOMAS, Contra Gent. I, 4 cf. E. SCHILLEBEECKX, ibid. 19[19] E. SCHILLEBEERCKX, op. cit., p. 82-83 Vào thời thượng cổ Hy Lạp, nó được dùng để chỉ những bài thơ ngụ ngôn và những áng văn mang màu sắc thần thoại về các vị thần linh của người Hy Lạp; đến thời Aristote, từ ngữ “thần học” còn được dùng để nói về Tuyệt Đối như “động cơ bất động”, như nguyên nhân tối hậu của những chuyển động và của những nguyên nhân đệ nhị; sau đó từ ngữ này còn được dùng để ca tụng hoàng đế trần gian, coi những vị này như những vị thần. Kể từ sau Duns Scot, từ ngữ “thần học” được các kitô hữu dùng với nghĩa tương tự như các từ Sacra Doctrina, Sacra Scriptura, Divina Pagina. “Thần học”, hiểu theo nghĩa kitô, là những lời về Thiên Chúa, là tri thức về Thiên Chúa và của Thiên Chúa. “Thần học” là khoa học có Thiên Chúa là đối tượng, bao hàm những kiến thức của con người về Thiên Chúa. “Thần học” là tri thức Thiên Chúa có về chính Ngài, và Ngài thông truyền cho con người nhờ ân sủng, do ý muốn tự do yêu thương của Ngài20[20]. Tri thức Thiên Chúa có về chính Ngài và về thế giới, được thông ban cho con người qua hai mức độ : mức độ thứ nhất hoàn hảo trong thị kiến vĩnh phúc, mức độ thứ hai bất toàn qua mặc khải và đức tin 21[21]. Có ba loại tri thức về Thiên Chúa: thứ nhất, tri thức con người có được do suy tư về thế giới được tạo dựng ; thứ hai, tri thức nhờ Lời Chúa được mặc khải cho con người; và thứ ba, tri thức có được do thị kiến về Thiên Chúa. Tương ứng với ba loại tri thức này là ba loại thần học: thần học tự nhiên hay thần lý học, thần học lữ khách hay “thần học” như vẫn được gọi, và sau cùng là thần học quê hương hay những tri thức của những người được tuyển chọn . Ba loại tri thức về Thiên Chúa kể trên, khác nhau theo cách thức đến với Thiên Chúa22[22]. Bình thường khi không nói gì rõ thêm, chúng ta hiểu “thần học” là những tri thức có được nhờ mặc khải, được lý trí tìm kiếm giải thích và hệ thống hóa trong đức tin. Nói theo ngôn từ của thánh Anselme, thần học là fides quaerens intellectum. THƯ MỤC Y. M. J. CONGAR, art. “Théologie”, trong DTC. XV, PARIS 1946, col. 341-502 Y. M. J. CONGAR, La foi et la Théologie, DESCLÉE 1962 Y. M. J. CONGAR, Situation et Taches présentes de la théologie, CERF- PARIS 1967 CL. GEFFRÉ, art. “L’histoire récente de la théologie fondamentale, essai d’interprétation”, trong CONCILIUM 46 (1969), pp. 11-28 G. GUTIERRE-MERINO, art. “Mouvements de libération et Théologie”, trong CONCILIUM 93 (1974), pp. 121- 130 Bản Đánh Máy của GHHV. Piô X, “Plan d’études de la faculté de théologie” 20[20] R. LATOURELLE, Théologie, Science du Salut, PARIS 1968, p.15. 18 21[21] Ibidem 22[22] Ibidem
3 và “Matières de la faculté de théologie”. R. LATOURELLE, Theologia Scientia sacra, GREGORIANA 1965 R. LATOURELLE, Théologie Science du Salut, PARIS 1968 AL. PIERIS, Một hướng thần học giải phóng á châu, ORBIS BOOKS 1988, bản dịch bởi UBĐKCGVN, tp. HCM 1989 K. RAHNER, art. “A prppos de la réforme des études ecclésiastique”,trong Est-il possible aujourd’hui de croire, MAME- FRANCE 1966 J. C. SCANNONE, art. “La théologie de la libération: évangélique ou idéologique?, trong CONCILIUM 93 (1974), pp. 131-138 ED. SCHILLEBEECKX, Approches thélogiques 1: Révélation et Théologie, CERF- BRUXELLES 1965 G. SOHNGEN, art. “La Sagesse de la théologie par la voie de la Science”, trong MYSTERIUM SALUTIS t.1, vol. IV, pp. 159-250 J. R. DE DIEGO, Theologia Scientia Sacra: introductio in theologiam, ĐALAT 1969 (cours rénéotypé du col. Pont. Pie X) DẪN NHẬP THẦN HỌC 2 MỤC LỤC: PHẦN II: ĐỐI TƯỢNG- MỤC ĐÍCH .................................................... Đối tượng thần học.................................................................................. 3 Thiên Chúa............................................................................ 3 Đức Yêsu Kitô và lịch sử cứu độ ........................................ 3 Đối tượng chất thể và hình thể của thần học ...................... 3 Mục đích của thần học............................................................................ 4 Giáo trình thần học.................................................................................. 4 Chuyên biệt hóa.................................................................... 4 Các giáo trình........................................................................ 5 THƯ MỤC................................................................................................. PHẦN II: ĐỐI TƯỢNG- MỤC ĐÍCH Phần trước đã tìm hiểu ý nghĩa từ ngữ “thần học”, trong phần này sẽ tìm hiểu đối tượng thần học xét như một khoa học, sau đó đích nhắm của thần học, và cuối cùng xem việc phân chia các môn trong thần học. Đối tượng thần học Một số người cho rằng đối tượng của thần học đã hàm chứa trong từ ngữ “thần học”. Thần học là “lời về Thiên Chúa” và “lời của Thiên Chúa”, nên đối tượng của thần học là Thiên Chúa. Thiên Chúa Trường phái Thomas cho rằng: đối tượng của thần học là Thiên Chúa, nghĩa là, như Thiên Chúa biết chính Ngài và Ngài thông truyền cho chúng ta nhờ mặc khải23. Đức Yêsu Kitô và lịch sử cứu độ Một số thần học gia khác cho rằng: mặc khải đến với chúng ta qua những biến cố xảy ra trong dòng lịch sử nhân loại, và chính những biến cố này cấu thành lịch sử cứu độ; chẳng hạn Cựu ước tường thuật những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân Ngài, và Tân Ước là Tin Mừng về đức Giêsu Kitô; thế nên, đối tượng của thần học là đức Kitô và lịch sử cứu độ23[1]. Như vậy đối tượng của thần học là gì? Thiên Chúa hay đức Kitô? Thiên Chúa hay nhiệm cục cứu độ? Theo E. Mersch, đối tượng chất thể của thần học gồm cả đối tượng chính là Thiên Chúa lẫn đối tượng thứ yếu là những công trình của Thiên Chúa. Đối tượng trung tâm của thần học không là gì khác ngoài Đức Kitô toàn thể, hay Đức Kitô mầu nhiệm24[2]. Phê bình: Đồng ý rằng: Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ; Đức Kitô toàn thể (Christ total) là đối tượng chất thể của thần học; Mầu nhiệm cứu độ khả tri nhờ Đức Kitô; Đời sống thần linh được ban cho con người nhờ và trong Đức Kitô; nhưng với những điều đó, liệu có thể nói Đức Kitô là đối tượng hình thể (objet formel) của thần học không? Câu trả lời là không, vì những lý do sau đây: Theo 1Yn.4, 9.16, Đức Kitô là Đấng biểu lộ chương trình tình yêu của Thiên-Chúa-cứu-độ trong lịch sử; nhưng đối tượng tối hậu của đức tin và của thần học, là ThiênChúa-cứuđộ- conngười-qua Đức Kitô; Theo 1Cor.3, 23: “anh em thuộc về Đức Kitô, còn Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”; và theo Eph.1, 3-7: Thiên Chúa là chính; trong khi đó theo viễn ảnh của Mersch, mầu nhiệm Ba Ngôi và sứ vụ thần linh là thứ yếu25[3]. Đối tượng chất thể và hình thể của thần học Bây giờ xem lập trường của trường phái Thomas. Với trường phái này, đối tượng chất thể của thần học là Thiên Chúa, còn đối tượng hình thể của thần học là Deus sub ratione deitatis, nghĩa là Thiên Chúa như là Thiên Chúa26[4]. Về đối tượng chất thể của thần học, thánh Thomas nói trong Summa Theologiae I, q.1, a.7: “Trong khoa học thánh, người ta 23 St. THOMAS, S.T., Ia, q. 1, a. 6 cf. R. LATOURELLE, op. cit., pp. 37.23 23[1] Ibidem 24[2] R. LATOURELLE, op.cit., p.30 25[3] R. LATOURELLE, op. cit., pp. 30-32. Không được lẫn lộn vấn đề đối tượng thần học và vấn đề hệ thống thần học. Nếu một khi đã chấp nhận đối tượng thần học là Thiên Chúa như là Thiên chúa , người ta có thể tùy ý chọn hệ thống thần học nào đó; chẳng hạn hệ thống quy Kitô, hay quy thần, hay hệ thống thần học quy giáo hội, hay quy nhân (anthropocentrique). Một điều nữa nên lưu ý về khuynh hướng tách rời và đối nghịch giữa thần học và nhiệm cục cứu độ. Theo E. Schillebeeckx, sđđ, trg. 81: “Ở thế kỷ IV, các thần học gia Byzantin thường đối nghịch giữa “thần học” (theologia) và “nhiệm cục” (oikonomia). Thần học khi đó dùng để chỉ “giáo lý về Chúa Ba Ngôi”, nghĩa là những gì liên hệ đến thần tính, đối nghịch với nhiệm cục cứu độ”. 26[4] R. LATOURELLE, op. cit., p. 23
4 có thể bàn về mọi sự liên hệ đến Thiên Chúa, hoặc vì những điều này thuộc về Thiên Chúa (yếu tính, thuộc tính, ngôi vị), hoặc vì những điều này quy về Thiên Chúa như nguồn gốc và đích điểm (các tạo vật, các hành vi nhân linh, lề luật, ân sủng, các nhân đức, các bí tích)”. Về đối tượng hình thể, đó là chính Thiên Chúa, là Thiên Chúa cứu độ con người qua Đức Kitô, là Thiên Chúa mặc khải trong dòng lịch sử, là Thiên Chúa tỏ mình là Ba Ngôi Vị. “Tất cả thần học đều quy tóm về mầu nhiệm Ba Ngôi và Nhập Thể, nghĩa là về mầu nhiệm Thiên Chúa trong đời sống thâm sâu của Ngài, và về nhiệm cục cứu độ (các phương tiện dẫn con người đến với Ngài)” (St. Thomas, S.T., IIa-IIae, q.1, a.8; q.2, a.5). Chân lý trung tâm của kho tàng mặc khải, cũng như ý tưởng chủ đạo hướng dẫn tiến trình mặc khải từ Cựu Ước đến Tân ước, là Thiên Chúa cứu độ con người nhờ Đức Kitô. Chính chân lý này nối kết và thống nhất cả hai giao ước27[5]. Mầu nhiệm Ba Ngôi cũng chỉ được mặc khải trong viễn cảnh cứu độ, để con người hiểu rằng Thiên Chúa Cha yêu thương và cứu độ con người qua Đức Kitô và trong Thánh Linh tình yêu28[6]. Thần học (theologia) là những lời về Thiên Chúa. Nhưng những lời về Thiên Chúa (logia) thì không đồng nhất với Thiên Chúa (chỉ có Logos đồng nhất với Thiên Chúa). Thiên Chúa vượt trên thần học, vì thần học là một khoa học, thuộc về tạo vật nên không thể nắm bắt và gói trọn được Thiên Chúa. Đối tượng chất thể của thần học là những tạo vật, là lịch sử cứu độ, là các mầu nhiệm Chúa Kitô, là các tín điều, v.v. Đối tượng hình thể của thần học là chính Thiên Chúa như là Thiên Chúa, là Thiên Chúa Ba Ngôi Vị, là chủ thể tự do chứ không là những sự vật. Mục đích của thần học Thần học là một khoa học thực hành hay là một khoa học lý thuyết? Thần học nhằm mục đích điều chỉnh hành động của chúng ta, giúp chúng ta sống tốt hơn, hay thần học chỉ nhằm giúp chúng ta biết chân lý, biết để biết thôi? Có những lập trường khác nhau, chúng ta có thể tóm lại thành bốn câu trả lời: Đối với Henri de Gand (†1293), thần học đơn thuần là khoa học lý thuyết, vì thần học nhắm tri thức và chiêm ngắm (qeorew) Thiên Chúa. Đối với Alexandre de Hales, Albert le Grand, Duns Scot, thần học đơn thuần là khoa học thực hành, vì thần học sưởi nóng lòng sùng kính và thúc đẩy ý muốn hướng đến sự Thiện tốùi hậu29[7]. Thánh Thomas cho rằng, làm thần học để trở nên tốt hơn và để dẫn người ta đến sự thánh thiện, nhưng thần học chủ yếu là tri thức lý thuyết (S.T., Ia, q.1, a.4). Thánh Bonaventura cho rằng: thần học là khoa học vừa lý thuyết vừa thực tiễn, nhưng chủ yếu là thực tiễn, vì thần học nhắm đầu tiên đến việc làm cho chúng ta tốt hơn (I Sent., Proemium, q. 3)30[8]. 27[5] Ibidem, p. 26-27 28[6] Ibid., p. 25 29[7] Alexandre de Hales gọi thần học là khoa học tâm tình (science affective); Albert le Grand gọi thần học là “tri thức hướng tới lòng sùng mộ”. Thế nhưng một số đông các sinh viên và các thần học gia cảm thấy sự bất cân xứng giữa đời sống thiêng liêng và đời sống tri thức. Dường như thần học làm họ xa cách Thiên Chúa, làm họ khô khan, chứ không nuôi dưỡng họ (cf. R. LATOURELLE, op. cit., p. 233). 30[8] R. LATOURELLE, op. cit., p. 63-65 Khi bàn về đời sống thiêng liêng của các thần học gia, R. Latourelle trong sách đã dẫn, trang 233-234 viết: Theo R. Latourelle, thần học hiện tại có nhiều hướng phục vụ hơn ngày xưa31[9]. Nét đặc trưng của hoạt động thần học hiện đại, là ý thức phục vụ Giáo hội hiện tại32[10]. Trong chiều hướng này chúng ta thấy mục đích của việc học thần học là đào tạo các linh mục và những tông đồ, vì sứ mạng đầu tiên của linh mục là loan báo lời cứu độ của Thiên Chúa (cf. P.O., 4)33[11]. Giáo trình thần học Chuyên biệt hóa Trong thần học, chúng ta thường nghe nói tới thần học căn bản, thần học tín lý, thần học luân lý, thần học tu đức, thần học mục vụ, thần học truyền giáo, thần học hiệp nhất, v.v.; nhưng ở những thế kỷ đầu trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta không thấy như vậy. Sự phân chia hay chuuyên biệt hóa này đã xảy ra theo nhu cầu của thời đại. Thần học thiêng liêng Ở thời thánh Thomas và Bonaventura, thần học thần bí vẫn nằm trong thần học; nhưng từ thế kỷ XV đã có nhiều chuyển biến, và sang thế kỷ XVI đã xuâát hiện những tác phẩm thiêng liêng không còn khởi từ thần học suy lý như nguồn cảm hứng, và hơn nữa tác giả của những tác phẩm này còn được coi như những thần học gia đúng nghĩa34[12]. Thần học thần bí, sau đó chuyển biến cả về nội dung lẫn tên gọi, thành thần học tu đức hay thần học thiêng liêng. Thần học luân lý Từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV, đã có nhiều thủ bản thực tiễn dành cho các cha giải tội. Nhưng từ cuối thế kỷ thứ XVI, luân lý trở thành một lãnh vực riêng thoát khỏi ảnh hưởng trực tiếp và cố hữu của tín lý 35[13]. Thần học kinh viện và thần học tích cực Thần học tự bản chất, không là đời sống thiêng liêng; nhưng tri thức về Thiên Chúa và đời sống trong Thiên Chúa không thể là không hòa hợp được, chẳng hạn ta thấy nơi các thánh Thomas, Bonaventura, Canisius, Roberto Bellarmino, v.v... Sự bất hòa hợp, chia cắt là do hậu qủa của tộí! 31[9] Khao khát được hiểu biết những điều mình tin rất mãnh liệt nơi thánh Augustinus và thánh Anselmus. Thánh Augustinus viết: “Desideravi intellectu videre quod credidi, et multum disputavi et laboravi”(De Trinitate XV, 28, 51 PL. 42, 1098). “Id quod credimus, nosse et intelligere cupimus” (De libero arbitrio II, 2, 5 PL. 32, 1243; De Trinitate IV. 1 PL. 42, 961; XV, 27, 40 PL. 42, 1096). Còn thánh Anselmus: “Non tento, Domine, penetrare altitudinem tuam; Quia nullatenus comparo illi intellectum meum, sed desidero aliquatenus intelligere veritatem tuam, quam credit et amat cor meum. Neque enim quaero intelligere ut credam; sed credo ut intelligam. Nam et hoc credo quia nisi credidero, non intelligam”(Proslogion I PL. 158, 227). Cf. R. LATOURELLE, op. cit., p. 214. 20 32[10] R. LATOURELLE, op. cit., p. 214 33[11] R. LATOURELLE, op. cit., p. 201 34[12] Y. CONGAR, art. cit., col. 423-424 E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 8 Điều đáng để ý là trong Tabulae fontium traditionis christianae từ thế kỷ XV, các cha Creusen và Van Eyen đã mở một cột đặc biệt về thần học tu đức và thần bí (theologia ascetica et mystica). 35[13] Y. CONGAR, art. cit., col. 424-426 Y. CONGAR, op. cit., p. 181 E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p. 83 “tín lý” ở đây vẫn được hiểu như nằm trong thần học kinh viện.