Nội dung text BAI GIANG TRIET HOC.doc
Nguyễn Thành Trí Trường ĐH Công Nghiệp TP.Hồ Chí Minh Bài giảng: Triết học Mác – Lênin 3 Chương 1: TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU 1. Mục đích: Về kiến thức, trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản và hệ thống về: Nguồn gốc, khái niệm triết học; về vai trò thế giới quan, phương pháp luận biện chứng; vấn đề cơ bản của triết học; Triết học Mác - Lênin và vai trò của nó trong đời sống xã hội. Về kỹ năng, sinh viên hiểu được kiến thức cơ bản của lịch sử triết học và triết học Mác - Lênin nhằm xác định mục đích, cách thức, bước đi đúng đắn cho bản thân. Từ đó, sinh viên có cách nhìn toàn diện, chủ động, sáng tạo trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cuộc sống. Về thái độ, giúp sinh viên có thái độ học tập tích cực, tự giác đối với các môn lý luận chính trị; Có niềm tin, lý tưởng về sự vận dụng các lý luận triết học Mác - Lênin trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Yêu cầu: Sau khi học xong chương 1, người học phải đạt được các chuẩn đầu ra như sau: - Hiểu được đối tượng và phương pháp của môn học để tiếp nhận và lựa chọn, xử lý thông tin về kiến thức triết học. - Giải thích được mục đích của môn học để giải quyết những vấn đề đặt ra trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn cuộc sống. B. NỘI DUNG 1.1. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC 1.1.1. Khái lược về triết học 1.1.1.1. Nguồn gốc của triết học Triết học là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên), tại các trung tâm văn minh lớn thời Cổ đại. Triết học xuất hiện không phải ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội, với một trình độ nhất định của sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Để đáp ứng nhu cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người đã sáng tạo ra những luận thuyết chung nhất, có tính hệ thống nhằm phản ánh thế giới xung quanh. Triết học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại. Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Nguyễn Thành Trí Trường ĐH Công Nghiệp TP.Hồ Chí Minh Bài giảng: Triết học Mác – Lênin 4 * Nguồn gốc nhận thức Nhận thức và giải thích thế giới là nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người. Về mặt lịch sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên mà con người dùng để giải thích thế giới bí ẩn. Người nguyên thủy kết nối những hiểu biết rời rạc, mơ hồ, phi lôgíc… của mình trong các quan niệm đầy xúc cảm và hoang tưởng thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy huyền thoại, tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn giáo sơ khai. Bằng hoạt động thực tiễn, con người ngày càng có nhiều kinh nghiệm và tri thức về thế giới. Sự nhận biết của con người về thế giới ngày càng mở rộng, họ quan tâm sâu sắc hơn đến cái chung và những quy luật chung. Chính quá trình nhận thức này đã thúc đẩy sự phát triển của tư duy trừu tượng và năng lực khái quát trong quá trình nhận thức của con người. Những tư duy và năng lực mới sẽ hình thành nên ý thức triết học với hệ thống các quan niệm, quan điểm chung nhất về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới đó. Như vậy, triết học không thể xuất hiện từ hư vô, mà phải dựa vào đời sống thực tại, vào các tri thức khác để khái quát và định hướng ứng dụng trên thực tế. Triết học với tư cách là một loại hình tư duy lý luận đối lập với các giáo lý tôn giáo và triết lý huyền thoại. Như vậy, nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành, phát triển của tư duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con người. Tri thức cụ thể, riêng lẻ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy luật, luận thuyết… đủ sức phổ quát để giải thích thế giới. Triết học ra đời đáp ứng nhu cầu đó của nhận thức. Do nhu cầu của sự tồn tại, con người không thỏa mãn với các tri thức riêng lẻ, cục bộ về thế giới, càng không thỏa mãn với cách giải thích của các tín điều và giáo lý tôn giáo. Tư duy triết học bắt đầu từ các triết lý, từ sự khôn ngoan, từ tình yêu sự thông thái, dần hình thành các hệ thống những tri thức chung nhất về thế giới. * Nguồn gốc xã hội Triết học không ra đời trong xã hội mông muội dã man, khi mà con người chưa có những tri thức về thế giới. Triết học ra đời vào giai đoạn chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ đã hình thành. Triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và loài người đã xuất hiện giai cấp. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã xác định và ở trình độ khá phát triển. Sự tách rời giữa lao động trí óc khỏi lao động chân tay làm xuất hiện “giới” trí thức với tính cách là một tầng lớp xã hội có vị thế xã hội nhất định. Tầng lớp này với khả năng khái quát và tư duy trừu tượng độc