PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text PSF - An Equipment Purchase Decision.docx

PRECISION STEEL FABRICATION (PSF): AN EQUIPMENT PURCHASE DECISION – PRECISION STEEL FABRICATION (PSF): QUYẾT ĐỊNH MUA THIẾT BỊ Nancy M. Levenburg, Grand Valley State University Brian Scalabrino, Grand Valley State University Vào thứ tư, ngày 27 tháng 10 nă 2004, Sanjit Raj, Phó Chủ tịch phụ trách kỹ thuật của PSF vừa theo dõi xong phần thuyết minh về ống laser (laser tube) tại sàn trưng bày FABTECH. “Đây là thiết bị “cool ngầu” nhất mà ông từng thấy phải không Tripper?” Raj hỏi, trong khi vẫn chưa khỏi kinh ngạc vì tốc độ và sức mạnh của ống laser. “Thiết bị thực sự rất “đỉnh” và nhiều khả năng nó sẽ phù hợp PSF vào lúc này. Chúng ta đã thấy các ống laser này tại sàn trưng bày FABTECH trong hai năm vừa qua…và dường như công năng của thiết bị này đã dần xứng đáng với mức giá hàng triệu đô,” Tripper Hawthorne, Chủ tịch của PSF trả lời với sự thích thú. Vâng, tôi không nghĩ Lakeshore Steel hay GVS2 từng nghĩ đến việc sở hữu những thiết bị như thế này? Raj trả lời. “Mà họ đã đến FABTECH đợt này chưa nhỉ?” Hawthorne mở to mắt quan sát. “Tôi vẫn chưa thấy họ đến, còn anh thì sao? Tôi đoán họ đã quyết định không đến đây từ Grand Rapids. Vậy anh nghĩ thế nào? Liệu chúng ta có nên thực hiện một chút nghiên cứu về thiết bị này? PRECISION STEEL FABRICATION: AN OVERVIEW TỔNG QUAN VỀ PRECISION STEEL FABRICATION Được thành lập năm 1945, PSF là một doanh nghiệp kinh doanh sắt thép chuyên về chế tạo cấu thành/ cấu kiện cho ngành contract office furniture – COF (tạm dịch nội thất văn phòng theo hợp đồng). Hawthorne sở hữu doanh nghiệp thông qua việc mua lại doanh nghiệp này từ bố và cậu của mình – những người sáng lập công ty. Với làn sóng tăng trưởng trong doanh số của ngành nội thất văn phòng, trong năm 2001, PSF đạt doanh số 10.9 triệu USD với 105 công nhân làm việc tại đây. Nền kinh tế của Mỹ và của Michigan, nơi mà PSF đặt nhà máy, bước vào giai đoạn suy thoái vào cuối năm 2001. Doanh số của ngành nội thất văn phòng giảm sút nhanh chóng, và gây ra ảnh hưởng đến PSF. Hawthorne phản ánh rằng, Hai năm kế tiếp sẽ gây ra ảnh hưởng nặng nề cho doanh nghiệp chúng ta. Đến cuối năm 2003, doanh số của PSF đã sụt giảm 24% xuống đến mốc 8.3 triệu USD. Bobby Zane, kiểm soát viên của ty, và tôi đã phải kỹ lưỡng kiểm tra lại từng hoạt động một của PSF để xác định những khoản chi phí có thể cắt giảm. Cuối cùng, công ty đã sả
thải 49 nhân viên. Tôi có thể nói rằng, đây thực sự là một quyết định hết sức khó khăn khi phải cho nghỉ gần một nửa nhân lực của mình, và tôi cũng không hề muốn thực hiện điều này một lần nào nữa trong thời gian đến. Trong một doanh nghiệp nhỏ như PSF, nhân viên như là gia đình. Mọi người không chỉ đơn giản là biết nhau, mà còn như là người thân với nhau. Giai đoạn phục hồi của cả ngành nội thất văn phòng lẫn PSF bắt đầu vào năm 2004. Sự kết hợp giữa hoạt động ngày càng tăng của ngành và khi mà các sản phẩm mới tiến vào giai đoạn trưởng thành, tất cả đã dẫn đến sự gia tăng một lượng lớn đơn đặt hàng. Trong giai đoạn này, dự báo doanh thu năm 2004 của PSF đã tăng lên khoảng 10 triệu USD. Hawthorne đã nhận xét, Khi Bobby và tôi xem lại các con số, cả hai chúng tôi đều thở phào nhẹ nhõm. . . cuối cùng có vẻ như mọi thứ đang trở lại. Mặc dù chúng tôi muốn mọi việc diễn ra một cách từ tốn, một mục tiêu luôn hiện hữu trong tôi là phải đưa một số người đã bị sa thải trở lại. Trên thực tế, tôi đã hy vọng chúng tôi có thể tuyển lại 62 nhân viên vào cuối năm 2004. Nhưng việc chúng tôi có thể làm được điều đó hay không phụ thuộc rất nhiều vào khách hàng của chúng tôi. . . và đơn hàng từ họ. Tại PSF, các bộ phận được sản xuất theo đơn đặt hàng và thông số kỹ thuật được yêu cầu. Công ty đã giành được cơ hội cung cấp sản phẩm cho khách hàng bằng cách cung cấp gói sản xuất với tốt nhất. Gói sản phẩm này bao gồm giá của cấu thành/ cấu kiện, chi phí dụng cụ bổ sung và dịch vụ. Dù giá của cấu thành/ cấu kiện rất quan trọng, các khách hàng cũng coi chi phí dụng cụ bổ sung và dịch vụ với mức quan trọng tương đương. “Dụng cụ bổ sung” ở đây được hiểu là các thiết bị, đồ gá lắp được chế tạo đặc biệt, có một không hai, được sử dụng để sản xuất sản phẩm cho khách hàng. Trong ngành nội thất văn phòng, khách hàng phải trả tiền cho dụng cụ mà nhà cung cấp sử dụng để chế tạo các bộ phận. Thông thường, mỗi một sản phẩm mà PSF làm ra (cấu thành/ cấu kiện) thường gắn liền với các loại chi phí ví dụ như từ máy welding fixtures (giá trị 30.000 USD – thiết bị được sử dụng để cố định cấu kiện/ linh kiện trong quá trình hàn dù bằng tay hoặc bằng robot); từ khuôn đột dập (giá trị 20.000 USD – thiết bị bên lắp đặt trong máy ép thủy lực dùng để dập lỗ và tạo hình thép; hoặc khoảng 10.000 USD cho các thiết bị đo lường kích cỡ cấu thành/ cấu kiện sau khi hoàn thành sản xuất. Chi phí dụng cụ bổ sung thường thấy sẽ dao động trong khoảng 60.000 USD và nó đại diện cho yếu tố chi phí mà khách hàng cân nhắc. Khả năng tạo ra sản phẩm với phí dụng cụ bổ sung thấp hơn sẽ giúp những doanh nghiệp như PSF có ưu thế trong cạnh tranh. Dịch vụ lại là một cân nhắc khác. Hawthorne cho rằng: Khách hàng của chúng tôi—các nhà sản xuất nội thất theo hợp đồng—mong đợi nhận được các bộ phận từ chúng tôi đúng thời hạn và với ít sai sót nhất. . . nếu có! Tất nhiên, họ cũng muốn mọi thứ diễn ra đúng lúc. . . họ không muốn giữ hàng tồn kho và chúng tôi cũng vậy! Ngoài ra, họ thường muốn cung cấp đồ nội thất với đủ loại màu sắc, vì vậy việc có thể cung cấp 100 khung ghế, nhưng 40 chiếc màu đen, 30 chiếc
màu chrome, 20 chiếc màu bạc và 10 chiếc màu trắng cũng rất quan trọng. Và đó là điều khiến quá trình sản xuất tại PSF—và cuộc sống của chúng ta—phức tạp hơn một chút! THE CONTRACT FURNITURE INDUSTRY NGÀNH NỘI THẤT THEO HỢP ĐỒNG (tạm dịch) Nội thất theo hợp đồng là nội thất văn phòng, nhưng cụ thể hơn, nó là thuật ngữ dùng để mô tả đồ nội thất không dành cho mục đích sử dụng ở. Thuật ngữ “hợp đồng” được sử dụng vì trong trường hợp này, đồ nội thất thường được mua với số lượng lớn theo các điều kiện của hợp đồng với công ty, chính phủ hoặc hệ thống trường học. Sau khi đạt được hợp đồng, nhà sản xuất đồ nội thất theo hợp đồng thường cung cấp cho khách hàng của mình một bộ sưu tập đồ nội thất được thiết kế riêng cho họ và được chế tạo để phối hợp và làm việc cùng nhau. Đồ nội thất hợp đồng trông tương tự như đồ nội thất văn phòng được bán tại các cửa hàng bán lẻ (ví dụ: Office Depot hoặc Staples), nhưng đồ nội thất hợp đồng được xây dựng theo tiêu chuẩn cao hơn, thường sử dụng vật liệu chất lượng cao hơn với độ bền cao hơn và có thể sử dụng lâu dài trong môi trường làm việc công sở. Theo các nguồn tin trong ngành, ngành nội thất theo hợp đồng đạt doanh thu cao nhất năm 2000 với mức doanh số là 13,2 tỷ USD. Suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ khiến doanh số bán hàng giảm mạnh 36% xuống mức thấp 8,5 tỷ USD vào năm 2003. Ngành nội thất hợp đồng bắt đầu phục hồi vào năm 2004, với mức tăng doanh thu 5% (lần đầu tiên trong ba năm) lên đến mốc 8,9 tỷ USD. Các chuyên gia phân tích ngành dự kiến nhu cầu về nội thất văn phòng sẽ tiếp tục có xu hướng tăng, dựa trên tốc độ tăng trưởng việc làm trong 250 ngành do Cục Thống kê Lao động báo cáo và dự báo việc làm trong hơn 500 ngành nghề cụ thể. Nhìn chung, dữ liệu chỉ ra rằng tổng số việc làm sẽ tăng lên, với sự sụt giảm về số lượng việc làm trong lĩnh vực sản xuất và tăng việc làm trong lĩnh vực dịch vụ. Ngoài ra, BIFMA (Hiệp hội các nhà sản xuất đồ nội thất tổ chức và doanh nghiệp) dự đoán rằng ngành này sẽ có những đợt phục hồi hơn nữa vào năm 2005, đạt doanh thu 10,02 tỷ USD. Hawthorne tin rằng ngành nội thất hợp đồng bị thống trị bởi bốn công ty: Steelcase, HNI Corporation (còn được gọi là HON), Haworth và Herman Miller. Năm 2004, Steelcase (có trụ sở chính tại Grand Rapids, Michigan) là công ty dẫn đầu ngành với doanh thu 2,3 tỷ USD. HNI Corporation đứng thứ hai với doanh thu 2,1 tỷ USD, Haworth đứng thứ ba với 1,4 tỷ USD và Herman Miller đứng thứ tư với doanh thu 1,3 tỷ USD. Tập đoàn HNI có trụ sở tại Muscatine, Iowa; Haworth và Herman Miller lần lượt có trụ sở chính tại Hà Lan và Zeeland, Michigan. Cùng với nhau, bốn công ty này kiểm soát gần 80% ngành công nghiệp trị giá 8,9 tỷ USD. Trong khi Steelcase, Herman Miller và Haworth là những nhà sản xuất đồ nội thất theo hợp đồng truyền thống, một số chi nhahs của HNI Corporation sản xuất đồ nội thất để bán trong các cửa hàng bán lẻ.
Nhiều công ty nội thất theo hợp đồng, chẳng hạn như Herman Miller, chuyên thiết kế, lắp ráp và phân phối, trong khi các công đoạn sản xuất các thành phần thép, gỗ và nhựa thường được outsource/ thuê ngoài cho các công ty khác, chẳng hạn như PSF. Một ví dụ là chiếc ghế “Flight” của Herman Miller, mà PSF đã chế tạo khung ghế hình ống bằng thép. Với sản phẩm này, PSF đã vận chuyển khung thô tới máy sơn tĩnh điện để sơn tĩnh điện màu bạc hoặc đen. Herman Miller sau đó lấy các khung đã tráng từ máy sơn tĩnh điện và đưa chúng về nhà máy lắp ráp. Herman Miller cũng gia công các bộ phận khác của ghế, chẳng hạn như ghế sau đúc phun, miếng đệm tay bằng cao su, bánh xe nhựa và ốc vít bằng thép. Steelcase thì không như vậy khi tự sản xuất nhiều bộ phận phụ để làm khung ghế và các đồ nội thất khác. Ví dụ, Steelcase có khả năng tạo hình cuộn thép của riêng mình, ngoài thiết bị uốn và tạo hình ống để tạo ra khung thép của riêng mình và thiết bị sơn tĩnh điện để phủ màu cho khung. Do đó, Steelcase hoàn toàn có thể tự thực hiện một tiến trình trong đó đòi hỏi một công ty tạo hình cuộn, một nhà chế tạo thép, một nhà sơn tĩnh điện và một nhà lắp ráp đều có thể được thực hiện. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Steelcase đã ngừng nhiều khả năng tích hợp theo chiều dọc và tập trung vào thiết kế, lắp ráp và phân phối. MANUFACTURING AT PRECISION STEEL FABRICATION SẢN XUẤT TẠI PRECISION STEEL FABRICATION Đơn đặt hàng của khách hàng—qua điện thoại, e-mail, fax hoặc tải xuống từ trang web của công ty—bắt đầu quá trình sản xuất tại Precision Steel Fabrication. Các đơn đặt hàng được nhập thủ công vào hệ thống Syteline ERP của PSF, kích hoạt các báo cáo yêu cầu về nhu cầu nguyên liệu và lập kế hoạch yêu cầu nguyên liệu (MRP). Hệ thống MRP hiển thị việc sử dụng nguyên liệu theo kế hoạch và tạo ra một báo cáo mua hàng, được sử dụng để đặt hàng nguyên liệu. Precision Steel Fabrication chế tạo các sản phẩm của mình bằng cách sử dụng thép ống cán, dây thép đặc và kim loại tấm. Thép ống cán chiếm khoảng 75% sản phẩm được bán ra, với 20% là dây và 5% còn lại là từ kim loại tấm. PSF đã mua phần lớn thép của mình từ ba nhà cung cấp: Roll & Weld Tube, Turner Wire và Northern Steel & Wire Company. Roll & Weld cung cấp phần lớn thép hình ống được các khách hàng có khối lượng lớn hơn của PSF sử dụng. PSF đánh giá Roll & Weld là nhà cung cấp chính nhờ chất lượng thép ổn định và khả năng lưu giữ hàng tồn kho tại kho của mình. Chất lượng thép ổn định là cực kỳ quan trọng đối với PSF, bởi vì thành phần thép hơi khác một chút có thể khiến nó chạy qua thiết bị một cách khác nhau. Khi điều này xảy ra, thiết bị cần phải được lập trình lại, điều này làm mất thời gian sản xuất. Nó cũng có thể dẫn đến các bộ phận không được sản xuất theo thông số kỹ thuật của khách hàng, nói chung là do chúng không giữ được hình dạng sau khi chế tạo. Roll & Weld cũng đồng ý giao thép hai lần mỗi tuần, điều này cho phép PSF giữ rất ít hàng tồn kho. Tuy nhiên, việc duy trì dự trữ thép ống an toàn là cần thiết vì thời gian giao hàng là hai ngày.

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.