Nội dung text 1728296842-6_Quan điểm pháp lý về vụ án ly hôn, tranh chấp nuôi con và chia tài sản.docx
QUAN ĐIỂM PHÁP LÝ (V/v: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trong vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản sau ly hôn”) Luật sư N.V.T (Công ty Luật N) tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho anh A.T.H tại phiên tòa giám đốc thẩm về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn ... Nội dung vụ việc cụ thể như sau: Anh A.T.H và chị L.T.H kết hôn hợp pháp vào năm 1998. Năm 2011, do xảy ra nhiều mâu thuẫn, chị N.T.L đã xin ly hôn với anh T.H.D. 1. Về con chung, Anh A.T.H và chị L.T.H có 1 người con trai, sinh năm 1998. Theo lời khai của 2 vợ chồng: Hai bên đồng ý ly hôn, đồng ý để chị L.T.H nuôi con chung và anh A.T.H đóng góp phí tổn nuôi con chung mỗi tháng 500.000 đồng. 2. Về tài sản hiện tại gồm: a, Bất động sản: - Thửa đất có diện tích 92m2, đã đổ đất và xây phòng trọ để cho thuê; - Thửa đất có diện tích 466m2, đã đổ đất và xây phòng trọ để cho thuê; - Căn nhà 3 tầng trên diện tích đất 130m2 hiện đang ở; Theo lời khai của 2 vợ chồng: - Hai vợ chồng đề nghị xác định 2 thửa đất gồm thửa có diện tích 92m2 và thửa có diện tích 466m2 là tài sản chung và chia theo quy định của pháp luật. - Về căn nhà 3 tầng trên diện tích 130m2, nguồn gốc căn nhà này là của anh A.T.H. Trước khi kết hôn anh đã có một căn nhà khác, sau đó bán đi được 120 triệu đồng và vợ chồng bù thêm tiền để mua căn nhà này với giá 200 triệu đồng, sau khi mua vợ chồng xây thêm một tầng. Chị L.T.H cho rằng trước khi kết hôn với anh A.T.H, chị đã phải bỏ ra 60 triệu đồng để sửa căn nhà cũ của anh A.T.H, nên chị L.T.H đề nghị xác định toàn bộ nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu chia đôi.
Tuy nhiên, anh A.T.H không đồng ý và yêu cầu chia cho anh được hưởng bằng trị giá 2/3 căn nhà trên. b, Động sản: - Chiếc xe máy DREAM II; - Khoản tiền 500 triệu đồng gửi Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn; - Khoản tiền bán xe ô tô là 170 triệu đồng; - Đồ dùng sinh hoạt như ti vi, tủ lạnh; - Khoản tiền 150 triệu đồng do nhượng bán cổ phần; Theo lời khai của 2 vợ chồng: - Về chiếc xe máy DREAM II mang tên chị L.T.H, hiện anh A.T.H đang sử dụng: Theo chị L.T.H chiếc xe trên chị mua và đăng ký trước khi kết hôn với anh A.T.H, nên là tài sản riêng của chị. Anh A.T.H đồng ý đây là tài sản riêng của chị L.T.H. - Về khoản tiền 500 triệu đồng gửi Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chị L.T.H cho rằng đây là khoản tiền chị vay để trả khách hàng, nhưng do chưa giao cho khách, nên chị tạm gửi vào ngân hàng, do vậy, số tiền trên không phải là tài sản chung của vợ chồng, và là tài khoản riêng của chị. Anh A.T.H không đồng ý và cho đây là tài sản chung vợ chồng. - Về khoản tiền bán xe ô tô là 170 triệu đồng anh, A.T.H giữ 100 triệu đồng, chị giữ 70 triệu đồng, chị cho rằng số tiền chị giữ đã chi tiêu hết vào công việc gia đình, nên chị đề nghị xác định 100 triệu đồng anh A.T.H đang quản lý là tài sản chung để chia. Anh A.T.H không đồng ý và khai anh đã đưa vào két và chị L.T.H đã sử dụng. - Về tài sản khác là đồ dùng sinh hoạt như ti vi, tủ lạnh, hai người đều đề nghị xác định là tài sản chung để chia - Về số tiền 150 triệu đồng do nhượng bán cổ phần chị L.T.H đề nghị xác định là tài sản chung chia theo quy định của pháp luật. Anh A.T.H không đồng ý do anh đã đầu tư kinh doanh, nay không còn. 3. Về nợ chung: Chị L.T.H trình bày vợ chồng có vay của chị D số tiền 2 tỷ đồng, khi vay có viết giấy vay, chị trực tiếp nhận 1 tỷ đồng và anh A.T.H nhận của chị D 1tỷ đồng, nên chị yêu cầu anh A.T.H phải có nghĩa vụ trả nợ chung khoản tiền trên.