PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text Một số kinh nghiệm khai thác kênh hình sách giáo khoa và sử dụng ĐDDH trong môn Tiếng Anh lớp 4.docx


Luận Văn Việt - Dịch vụ viết sáng kiến kinh nghiệm 2 Giáo viên: Trần Thị Hương Trà – Trường TH Trần Phú I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tiếng Anh từ lâu đã được coi là ngôn ngữ chung của thế giới. Ngày nay nó là ngôn ngữ chính thức của hơn 53 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, Tiếng Anh là một ngôn ngữ đẹp, gắn liền với nhiều nét văn hóa đặc sắc từ những quốc gia sử dụng nó. Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập, đổi mới đất nước, Nhà nước đã có những chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Nhiều công ty liên doanh, hợp tác giữa Việt Nam với các công ty nước ngoài cũng rất phát triển. Điều đó làm cho Tiếng Anh càng trở nên quan trọng, đặc biệt là trong giao tiếp. Hiểu được tầm quan trọng đó, nhà nước ta đã đưa Tiếng Anh vào giảng dạy như môn học chính thức ở các cấp học, ngành học trong đó có cấp Tiểu học nhằm giúp các em bước đầu được tiếp xúc, lĩnh hội và phát triển một số kĩ năng cơ bản, tạo tiền đề tốt cho tương lai. Để đạt được mục tiêu trên, trước hết người giáo viên cần có kiến thức và các kĩ năng sư phạm tốt. Và để có một tiết dạy thành công thì giáo viên phải biết tìm ra nhiều phương pháp dạy học mới, biết kết hợp nhiều yếu tố, trong đó yếu tố về sách giáo khoa, đồ dùng dạy học đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong những năm gần đây, Bộ Giáo Dục và Đào tạo đã thay đổi chương trình, sách giáo khoa cho học sinh cấp Tiểu học. Nếu so sánh bộ sách giáo khoa lớp 4 trước đây thì dễ dàng nhận thấy sách giáo khoa Tiếng Anh 4 mới được thiết kế với khổ sách to hơn, chất lượng giấy tốt hơn, kênh chữ rõ ràng, hình ảnh đa dạng, màu sắc đẹp, bắt mắt. Bên cạnh đó đồ dùng, thiết bị dạy học cũng được quan tâm đầu tư hơn. Một số bộ tranh, đồ dùng thiết bị dạy học như đài, máy chiếu, bảng tương tác... được khuyến khích sử dụng. Qua thực tế giảng dạy, bộ sách Tiếng Anh 4 mới kết hợp với sử dụng các thiết bị dạy học, tôi thấy nó góp phần quan trọng trong việc thu hút sự chú ý cũng như việc tiếp thu bài của các em. Giáo viên dễ dàng truyền thụ kiến thức cho học sinh, giúp các em hiểu và nắm được bài nhanh hơn. Đối với học sinh, các em tỏ ra rất hứng thú, dễ hiểu nghĩa của từ, nội dung bài cũng như hoàn thành các dạng bài tập một cách nhanh hơn, chính xác hơn. Nhưng làm thế nào để khai thác kênh hình trong sách giáo khoa và kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả là một vấn đề mà bản thân tôi cũng như một số giáo viên khác rất quan tâm. Chính vì điều đó mà tôi mạnh dạn chọn đề tài Một số kinh nghiệm khai thác kênh hình sách giáo khoa và sử dụng đồ dùng dạy học môn Tiếng Anh lớp 4 để nghiên cứu. Trong bài viết này, tôi muốn chia sẻ một số kinh nghiệm mà bản thân đã đúc rút được trong quá trình giảng dạy.
Luận Văn Việt - Dịch vụ viết sáng kiến kinh nghiệm 3 Giáo viên: Trần Thị Hương Trà – Trường TH Trần Phú 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài - Đề tài giúp góp phần đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên có thể tự tin, mạnh dạn và thành thạo trong việc khai thác kênh hình sách giáo khoa kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học. Giúp các em hứng thú, chủ động và sáng tạo trong học tập, nhớ lâu các từ mới, hiểu sâu các cấu trúc ngữ pháp, hình thành khả năng phán đoán, phản xạ trong quá trình học và đồng thời biết vận dụng chúng trong giao tiếp. - Nêu được vai trò và tầm quan trọng của kênh hình sách giáo khoa cũng như các đồ dùng, thiết bị dạy học; Nghiên cứu thực trạng học sinh khối lớp 4 trường Tiểu học Trần phú và chỉ ra các cách thức khai thác kênh hình sách giáo khoa kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học vào các tiết dạy một cách có hiệu quả. 3. Đối tượng nghiên cứu Phương pháp khai thác kênh hình sách giáo khoa kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học trong môn Tiếng Anh. 4. Phạm vi nghiên cứu Môn Tiếng Anh lớp 4, trường Tiểu học Trần Phú năm học 2014 -2015 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp trải nghiệm thực tế. - Phương pháp quan sát, khảo sát, thống kê. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Trong thời kì đổi mới đất nước, mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới ngày càng mở rộng nên Tiếng Anh có vai trò cực kì quan trọng ở mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong giao tiếp. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa chương trình Tiếng Anh vào giảng dạy ngay từ các lớp 3, 4, 5 cấp Tiểu học, thậm chí ở những trường có điều kiện, môn Tiếng Anh được thực hiện từ lớp 1. Ngày 30/9/2008 Thủ tướng Chính phủ đã kí quyết định số 1400/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân (Đề án 2020) với mục tiêu: “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình  độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hoá; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Vì thế vai trò của giáo viên Tiếng Anh thực sự rất quan trọng, vừa giúp các em nắm vững vốn từ vựng, cấu trúc ngữ pháp, những dạng bài, kiểu bài, vừa phải tìm tòi những phương pháp hay, phù hợp với lứa tuổi của học sinh tiểu học để giúp các em tiếp thu bài học một cách có hiệu quả. Trong quan điểm mới về dạy học hiện nay, người thầy không phải là người truyền thụ, nhồi nhét kiến thức, mà là người tổ chức, điều khiển và hướng dẫn học sinh tự khám phá ra kiến thức. Không khí thoải mái và thư giãn sẽ được tạo ra bằng cách cho học sinh vừa học vừa chơi, cho các em tự đoán nghĩa của từ của bài học qua tranh ảnh, các mẩu chuyện… mà không ép buộc các em học theo một khuôn mẫu cụ thể nào. Khai thác và sử dụng hiệu quả tranh ảnh minh họa sách giáo khoa kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học sẽ giúp giáo viên và học sinh tốn ít thời gian, công sức mà chất lượng dạy học trong từng bài có tính chiều sâu, đạt hiệu quả cao về mục tiêu của môn học. Pê-xta-lô-zi nhà giáo dục Thụy Sĩ đã khẳng định rằng “Nhận thức sự vật bằng nhiều giác quan bao nhiêu thì những phán đoán của chúng ta càng đúng bấy nhiêu”. Chính vì thế, việc áp dụng đề tài của bản thân vào việc giảng dạy là một việc làm rất cần thiết và đúng đắn. 2. Thực trạng 2.1. Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi: Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng việc dạy học ngoại ngữ và đã đưa môn Tiếng Anh trở thành môn học chính thức trong nhà trường. Bên cạnh đó Ngành Giáo dục cũng đã tổ chức nhiều cuộc thi Tiếng Anh bổ ích như: Tiếng Anh qua mạng Internet, Giao lưu học sinh nói Tiếng Anh, Toán Tiếng Anh qua mạng Internet,… thu hút rất đông đảo các em học sinh tham gia từ cấp Tiểu học đến THCS, THPT. Phòng Giáo dục và Đào tạo rất quan tâm đến việc dạy và học môn Tiếng Anh tại các nhà trường, vì thế đã có nhiều chương trình bồi dưỡng cũng như tổ chức các buổi tập huấn phương pháp giảng dạy cho giáo viên và tổ chức nhiều cuộc thi, các đợt giao lưu để các em học hỏi lẫn nhau. Lãnh đạo nhà trường quan tâm, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tinh thần cho cả giáo viên và học sinh trong việc dạy học môn Tiếng Anh. Bản thân đã trải qua gần 7 năm công tác và luôn có ý thức cao trong công tác tự học, tự rèn nên nên việc giảng dạy có nhiều thuận lợi. 100% học sinh khối 3,4,5 đều được học môn Tiếng Anh, tất cả học 2 buổi/ ngày và 2 tiết/tuần. Bắt đầu năm học 2014 - 2015, nhà trường tổ chức dạy chương trình Tiếng Anh làm quen cho học sinh khối 1, 2. Hầu hết các em có đầy đủ sách giáo khoa, ý thức học tập tốt và có hứng thú với bộ môn Tiếng Anh. Đa số Cha mẹ học sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc học môn Tiếng Anh nên đã phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn nhằm quan tâm, hỗ trợ các em kịp thời trong quá trình học tập cũng như tham gia các kỳ thi do trường và cấp trên tổ chức. * Khó khăn: Trong quá trình giảng dạy, mặc dù giáo viên đã nắm được quy trình, phương pháp và kiến thức kĩ năng của bài dạy nhưng vẫn chưa phân bố hợp lý thời gian vào việc dạy những kĩ năng quan trọng, cơ bản mà còn quá chú trọng cho việc dạy ngữ pháp, kĩ năng đọc và chữa bài tập nên đôi lúc làm cho học sinh căng thẳng và mất nhiều thời gian trong một tiết học. Kiến thức ở khối lớp 4 tương đối nhiều và khó, chưa thật phù hợp với lứa tuổi của các em, trong khi đó thời gian cho một bài học là khá ngắn. Giáo viên chưa chủ động trong việc khai thác hết các kênh hình trong sách giáo khoa hoặc sử dụng đồ dùng dạy học trong các tiết dạy để giúp các em hứng thú hơn. Các em chưa có thói quen đưa ra ý kiến của mình về nghĩa của từ, của một mẩu chuyện hay cách sử dụng một mẫu câu mà chỉ học theo một khuôn mẫu do giáo viên tạo ra. Học sinh đồng bào khả năng tiếp thu còn chậm, cùng một lúc các em phải học ba thứ tiếng (tiếng Êđê - tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt và tiếng Anh). Mặt khác, kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ các em thường đi làm nương rẫy xa nhà, chưa thật sự quan tâm tới việc học của các con nên kết quả học tập của học sinh chưa cao. Nguồn đồ dùng dạy học về tranh, ảnh màu, thiết bị đồ dùng dạy học tự làm, máy chiếu… để phục vụ dạy học còn hạn chế. Đơn vị chưa có phòng học riêng cho môn Tiếng Anh. 2.2. Thành công, hạn chế * Thành công: Giáo viên chủ động tìm tòi tranh ảnh, đồ dùng dạy học khi lên lớp; tự tin trong việc khai thác kênh hình kênh chữ sách giáo khoa, sử dụng các thiết bị dạy học thành thạo, thường xuyên ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo hứng thú cho học sinh, giúp các em tiếp thu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em rất tích cực và hứng thú trong việc thảo luận, tự tin đưa ra ý kiến của mình nhằm chia sẻ với bạn bè trong tiết học. Các em nhớ các từ mới, hiểu sâu hơn cấu trúc ngữ pháp, biết tự đặt câu và sử dụng một số mẫu câu vào giao tiếp, kĩ năng phản xạ của các em tốt, … vì thế kết quả các giờ học tiếng Anh được nâng lên. * Hạn chế: Đôi khi giáo viên chưa hiểu hết ý tưởng của tác giả nên chưa khai thác triệt để các nội dung kênh hình trong sách giáo khoa hoặc hiểu rõ giá trị ý nghĩa của kênh hình song ngại sử dụng, sợ mất nhiều thời gian ảnh hưởng đến tiết học. Trong quá trình khai thác bài giảng, phần lớn giáo viên chỉ huy động một số học sinh năng khiếu tham gia phát biểu ý kiến, chưa quan tâm đều số học sinh còn lại, điều này làm cho các em thêm tự ti về năng lực của mình và cảm thấy chán nản. 2.3. Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh: Giáo viên khắc phục được cách dạy theo khuôn mẫu truyền thống, không áp đặt học sinh học theo một cách học cứng nhắc, một chiều. Khai thác hình ảnh trong sách giáo khoa kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học phù hợp với tâm lý và lứa tuổi của học sinh tiểu học nên các em tỏ ra rất hứng thú, hăng say và cảm thấy không nhàm chán, các em hiểu và nhớ lâu các từ vựng. Học sinh dần khắc phục được lối học thụ động, tự mình khám phá và lĩnh hội kiến thức, đồng thời tăng cường mối quan hệ tương tác giữa các em với giáo viên. * Mặt yếu: Cách tổ chức dạy học của một số ít giáo viên vẫn còn mang tính hình thức, rập khuôn. Phương pháp này tốn khá nhiều thời gian chuẩn bị nên đòi hỏi giáo viên phải biết sáng tạo, kiên trì và cẩn thận. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến đề tài Sử dụng nhiều tranh ảnh, đồ dùng dạy học tự tạo kết hợp với việc sử dụng công nghệ thông tin trong các tiết dạy tạo cho không khí lớp học thêm sinh động, ít căng thẳng và đạt hiệu quả cao. Sử dụng nhiều tranh ảnh, giáo cụ trực quan, quen thuộc với học sinh tiểu học phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh. Học sinh có thể ôn từ vựng mọi lúc, mọi nơi. Các em học và nhớ được nhiều từ, nắm được nghĩa và cách sử dụng vốn từ vựng trong thực hành giao tiếp. Điều này sẽ giúp các em có được động cơ học tập và niềm say mê đối với môn học này. Trong quá trình dạy học có thể nói người giáo viên còn chưa có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để các đối tượng học sinh nắm vững được lượng kiến thức. Tuy nhiên, có một số học sinh ý thức tự giác chưa cao nên kể cả khi giáo viên tổ chức nhiều hoạt động thì học sinh đó vẫn tỏ ra không hợp tác. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra Trường Tiểu học Trần Phú nằm ngay trung tâm thị trấn Buôn Trấp, trình độ dân trí tương đối cao. Cơ sở vật chất được trang bị tương đối đầy đủ, đáp ứng cho việc tổ chức các hình thức học tập phát huy tính tích cực của học sinh. Bên cạnh đó, trong địa bàn vẫn còn nhiều gia đình học sinh thuộc diện hộ nghèo, đời sống kinh tế khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa ít quan tâm theo dõi đến việc học của con em mình. Đơn vị có 2 điểm trường, trong đó phân hiệu Buôn Trấp 100% số học sinh là người dân tộc Ê-đê, phần lớn các em đọc chưa thông, viết chưa thạo tiếng Việt, kĩ năng giao tiếp hạn chế, một số em ý thức tự học, tự rèn chưa cao, khả năng tiếp thu chậm, do vậy việc tiếp thu bài cũng như khả năng phân tích tranh ảnh còn hạn chế. Bản thân giáo viên dạy tiếng Anh trẻ, năng động, luôn tìm tòi, sáng tạo và tự học hỏi để nâng cao năng lực, nghiệp vụ sư phạm của mình. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học để kích thích sự hứng thú, phát huy tối đa năng lực của người học giúp tiết học thành công hơn. Chú trọng đổi mới phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” và theo hướng giao tiếp là chính nên áp dụng đề tài vào giảng dạy là một việc làm đúng đắn và rất bổ ích. Tuy nhiên, một số phụ huynh và học sinh vẫn còn tâm lí coi môn Tiếng Anh là môn phụ nên chưa quan tâm tới việc học của con cái, các em học còn lơ là. Vì thế, đầu năm ngay sau khi nhận lớp, tôi đã phối hợp trao đổi với các giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác tuyên truyền về vai trò của môn học đối với phụ huynh. Mặc dù nhà trường chưa có phòng học Tiếng Anh riêng, chưa trang bị đầy đủ thiết bị dạy học nhưng bằng kinh nghiệm vốn có của bản thân, tôi đã nghiên cứu tự làm một số đồ dùng và thiết kế lồng ghép các trò chơi, cập nhật nhiều hình ảnh minh họa phù hợp nhằm hỗ trợ bài giảng qua các phần mềm trình chiếu. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Làm rõ vai trò, tầm quan trọng và cách thức khai thác kênh hình trong sách giáo khoa kết hợp với sử dụng đồ dùng dạy học để tiết dạy đạt hiệu quả cao nhất. Đưa ra một số giải pháp về cách khai thác kênh hình trong sách giáo khoa và sử dụng đồ dùng dạy học giúp học sinh thích thú, lôi cuốn các em vào các hoạt động học góp phần nâng cao chất lượng mũi nhọn môn Tiếng Anh. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp 3.2.1. Giáo viên cần nắm vững vai trò, nguyên tắc sử dụng của kênh hình và đồ dùng dạy học * Vai trò của kênh hình và đồ dùng dạy học: Việc khai thác kênh hình sách giáo khoa và kết hợp thêm đồ dùng dạy học là những hoạt động luôn tạo sự mới mẻ, hứng thú, không gây căng thẳng, nhàm chán đối với người học. Trong thực tế có rất nhiều phương pháp khai thác đồ dùng dạy học, tùy vào đối tượng học sinh và kiến thức của từng bài để khai thác sao cho phù hợp, triệt để và có hiệu quả. Thông thường các kênh hình bắt mắt, các video ngộ nghĩnh hay một tiết học bằng máy chiếu sẽ làm sống động tiết dạy và khích lệ sự tò mò trong quá trình học của học sinh, đồng thời chúng tạo điều kiện cho học sinh phát huy trí tuệ, tính sáng tạo, tích cực và thể hiện tính cách, cảm xúc rõ nét. Bộ sách sách giáo khoa lớp 4 hiện nay được biên soạn nội dung hướng về kĩ năng giao tiếp, thiết kế rõ ràng về mục tiêu kiến thức, kĩ năng cần đạt được trong một tiết học. Kênh chữ to, kênh hình sinh động, nhiều màu sắc, rõ ràng, thể hiện rõ nội dung bài học, kích thích sự tò mò, sáng tạo, tích cực từ các em học sinh, giúp giáo viên rất nhiều trong quá trình chuẩn bị bài dạy. Muốn khai thác tốt kênh hình trong sách giáo khoa, trước hết ta cần nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để hiểu rõ những vai trò của chúng. Cụ thể: - Hỗ trợ làm rõ nghĩa của từ hoặc khái niệm mới. VD: Giới thiệu các hoạt động, các môn thể thao, thời gian, các loại thức ăn, đồ uống v.v… - Hỗ trợ tạo tình huống, ngữ cảnh để giới thiệu ngữ liệu mới, chủ đề, nội dung bài học hoặc ngữ cảnh giúp cho việc thực hành trở nên có nghĩa. - Tạo tiền đề, làm cơ sở cho các bài tập thực hành. VD: Thảo luận qua tranh, ảnh… trước khi thực hành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết . - Phản ánh, cung cấp các thông tin nội dung giúp học sinh mở mang kiến thức và hiểu biết hơn về thế giới quanh mình. - Gây hứng thú, làm cho bài học trở nên thú vị và gần gũi với cuộc sống đời thường của các em. Ngoài ra, để bài học thêm phần sinh động, mới mẻ và đạt hiệu quả cao hơn giáo viên thường kết hợp sử dụng thêm các đồ dùng dạy học vào bài dạy để kích thích sự tò mò, sáng tạo và rèn luyện kĩ năng phản xạ tốt ở các em. * Nguyên tắc khai thác kênh hình và đồ dùng dạy học - Kênh hình, đồ dùng dạy học phải phù hợp với lứa tuổi, trình độ nhận thức của học sinh; Đồ dùng phải đơn giản, hấp dẫn và giúp học sinh hiểu ra ngay vấn đề, đồng thời mang tính chất tổng hợp, gợi mở, tạo tình huống và giúp học sinh suy nghĩ sáng tạo. - Đồ dùng trực quan phải mang tính khoa học, sư phạm, tránh làm một cách hình thức; Phải cẩn thận, chu đáo có sự đầu tư kỹ cả về hình thức và nội dung. Cách bố trí, tạo hình dáng của đồ dùng trực quan phải đẹp, rõ ràng và nêu được vấn đề cụ thể, kênh hình, kênh chữ phải to, rõ ràng. Tránh dùng nhiều màu sắc lòe loẹt, khó nhìn. - Xác định vị trí đặt đồ dùng cho cân đối, đúng tầm nhìn của học sinh. - Sử dụng vào thời điểm cần thiết nhất để cung cấp kiến thức và khai thác thông tin. Sự xuất hiện đúng lúc làm tăng thêm thế mạnh của kênh hình, nhất là trong sự háo hức chờ đợi của học sinh. - Tìm vị trí để giới thiệu các kênh hình một cách hợp lý nhất. Có như vậy học sinh mới huy động được nhiều giác quan nhất. Khi thấy không cần thiết thì cất ngay để không làm học sinh mất tập trung. - Muốn đạt hiệu quả cao chúng ta cần nhớ phải sử dụng đúng cường độ, hiệu quả của kênh hình sẽ giảm sút nếu kéo dài việc sử dụng một loại phương tiện hoặc hình ảnh cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu. - Đồ dùng trực quan phải mang tính chất thông dụng có nghĩa là phải dễ làm, dễ sử dụng, rẻ tiền, dễ kiếm và sử dụng được lâu dài. - Nếu trong một bài học giáo viên muốn sử dụng nhiều đồ dùng dạy học thì trước tiết dạy đó giáo viên phải chuẩn bị bài thật kĩ, lên ý tưởng, sắp xếp đồ dùng một cách hợp lý và đặc biệt phải biết phối hợp sử dụng các loại đồ dùng một cách hợp lý và phải đảm bảo chúng luôn hỗ trợ tương tác với nhau và tránh việc quá lạm dụng đồ dùng dạy học trong một tiết học làm cho tiết học không đúng trọng tâm. 3.2.2. Chuẩn bị các đồ dùng và phương tiện dạy học phù hợp Đồ dùng và phương tiện dạy học được coi là công cụ để thực hiện phương pháp dạy học. Chúng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có phương pháp dạy học và hoạt động dạy học. Sử dụng tốt đồ dùng và phương tiện dạy học sẽ giúp cho giáo viên có thể thu hút sự chú ý, say mê và phát huy tối đa tính tích cực, năng động, sáng tạo hơn của học sinh trong học tập. Học sinh có thể tự khám phá, lĩnh hội kiến thức và phát triển kỹ năng thực hành. Tôi cho rằng tiết dạy của giáo viên sẽ không đạt được kết quả tốt nếu như không có sự hỗ trợ của đồ dùng dạy học bởi vì giáo viên lên lớp mà không có bất cứ phương tiện dạy học nào thì chẳng khác nào một người lính ra trận mà không có vũ khí. Việc sử dụng tốt phương tiện dạy học là một sự hỗ trợ đắc lực thể hiện một phần nội dung chính của sách giáo khoa, đáp ứng nhu cầu học tập theo hướng tích cực và gây hứng thú hơn trong học tập của học sinh. Đối với môn Tiếng Anh lớp 4, thông thường giáo viên cần chuẩn bị các đồ dùng, phương tiện dạy học sau: - Phương tiện nhìn gồm: tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, các vật thật, các đồ dùng tự làm, bộ con rối về các nhân vật trong sách giáo khoa... - Phương tiện nghe: đài, đĩa, băng ghi âm… - Phương tiện nghe - nhìn: máy đèn chiếu, bảng tương tác, máy tính. Tùy từng dạng bài tập hoặc nội dung từng hoạt động, giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình sách giáo khoa và sử dụng đồ dùng, phương tiện dạy học phù hợp, triệt để và hiệu quả. Nếu sử dụng tốt những đồ dùng trực quan trong giờ tiếng Anh, học sinh sẽ nắm bắt ngữ liệu, cấu trúc nhanh hơn, đặc biệt những tranh ảnh đẹp, các đồ dùng trực quan được chọn lọc hấp dẫn sẽ nâng cao tính thẩm mỹ và khả năng tiếp thu bài cho học sinh. 3.2.3. Quy trình khai thác kênh hình và sử dụng đồ dùng, phương tiện dạy học Trong quá trình lên lớp, giáo viên cần thực hiện theo các bước sau: - Nắm vững mục tiêu cần đạt của bài học, xây dựng hệ thống hình ảnh, đồ dùng dạy học cần sử dụng và chú ý sắp sếp chúng theo từng hoạt động của bài dạy trong thiết kế bài dạy của mình. - Nói rõ mục đích, yêu cầu cách thức tìm kiếm thông tin trên kênh hình, đồ dùng dạy học để học sinh không bị phân tán sự chú ý sang nội dung khác. - Đưa ra hệ thống câu hỏi để khai thác hết các khía cạnh tích cực của hình ảnh. Hệ thống câu hỏi và các “góc” khai thác của giáo viên có tác dụng định hướng để học sinh tư duy, làm việc tích cực với các hình ảnh, chủ động nắm bắt và ghi nhớ kiến thức theo đúng mục đích cần đạt của bài học. Đặc biệt phải luôn có phương án điều chỉnh câu hỏi cho phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp. - Dựa trên hệ thống câu hỏi, tổ chức để học sinh được trình bày ý kiến của mình với nhóm bạn hoặc với lớp trước khi giáo viên đưa ra kết luận cuối cùng. Điều này hết sức quan trọng trong việc tạo niềm tin cho học sinh, giúp học sinh mạnh dạn trong việc trình bày những kiến thức mà mình nắm được. Từ đó giúp giáo viên có được những điều chỉnh phù hợp với đối tượng học sinh. - Sắp xếp các tranh ảnh minh họa, đồ dùng dạy học trong bài theo một trình tự phù hợp và dạy học sinh theo trình tự đó. - Cuối cùng giáo viên nhận xét, bổ sung và chốt lại phương án trả lời đúng nhất. 3.2.4. Cách thức khai thác, sử dụng kênh hình và các loại đồ dùng dạy học vào các hoạt động dạy học - Giới thiệu ngữ liệu mới: Ở giai đoạn giới thiệu ngữ liệu mới có những từ chỉ cần thông qua tranh hoặc ảnh là nghĩa của chúng được thể hiện một cách dễ hiểu và đầy đủ. Một số trường hợp giáo viên có thể mang vật thật để tăng hứng thú cho học sinh. (Giới thiệu những từ chỉ đồ vật, đồ chơi, đồ dùng, đồ ăn, thực phẩm, rau quả, đồ uống, các môn thể thao, các danh lam thắng cảnh….); Bên cạnh đó giáo viên có thể cho các em xem một đoạn phim liên quan đến chủ đề của bài học để giới thiệu bài (xem một bản tin dự báo thời tiết ngắn khi dạy bài “The weather”, một đoạn phim về các môn thể thao khi dạy bài “Sports and Games” hay các hoạt động của các em trong giờ ra chơi khi dạy bài “Activities in your break time”…). Đôi khi giáo viên sẽ thiết kế một trò chơi để học sinh tìm ra từ khóa của bài học…. Mỗi bài học luôn luôn gắn liền với một chủ đề, một tình huống, dùng tranh ảnh, video để giới thiệu chủ đề, nội dung hoặc tình huống sẽ làm cho học sinh hứng thú và nhanh chóng nắm bắt điều sẽ được học. Ví dụ: Khi dạy Unit 16 - Let’s go to the bookshop (Tiếng Anh 4) - Mục tiêu của bài là học sinh nắm được tên của một số địa điểm, sau đó có thể đưa ra gợi ý và lý do tới đó. - Tôi tổ chức trò chơi ô chữ và từ khóa của ô chữ sẽ là “PLACES”. Trò chơi này sẽ có 6 từ hàng ngang, trả lời được mỗi hàng ngang học sinh sẽ mở được một từ khóa. Để tìm ra được từ hàng ngang học sinh sẽ trả lời dựa theo gợi ý của tôi. Cuối cùng, học sinh nào tìm được từ khóa học sinh đó sẽ giành được chiến thắng. Khi học sinh mở được từ khóa, tôi sẽ hỏi học sinh nghĩa của từ khóa, nếu học sinh biết tôi sẽ dẫn vào bài ngay lúc đó. Nếu học sinh không biết tôi sẽ giải thích cho các em và dẫn vào bài mới. - Để chơi trò chơi này phải có sự chuẩn bị chu đáo về tranh ảnh hoặc nếu dạy bằng máy chiếu, tôi cần thiết kế trò chơi với những hình ảnh và gợi ý rõ ràng.
Luận Văn Việt - Dịch vụ viết sáng kiến kinh nghiệm 4 Giáo viên: Trần Thị Hương Trà – Trường TH Trần Phú 1 2 3 4 5 6 CROSS WORDS! A I N M C L EN RTSA G ETN IH UAA AVI LAND APJAN MALAIYSA - Các từ hàng ngang tương ứng với tên các quốc gia các em đã được học vì vậy tôi sẽ cho các em các gợi ý về các quốc gia đó: 1: 5 letters This is the flag of ………………………….. 2: 8 letters Kuala Lumpur is the capital of………………..

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.