Nội dung text 264.2 - TVTT0000589 - Một Vài Quy Tắc Khi Soạn Lời Nguyện Chung Hay Lời Nguyện Cho Mọi Người - Priere Universelle - Nguyễn Thế Thủ - Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn.pdf
1 MỘT VÀI QUY TẮC KHI SOẠN LỜI NGUYỆN CHUNG HAY LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI (Prière universelle) Lm Vinh Sơn NGUYỄN THẾ THỦ Giáo sư Phụng vụ Đại Chủng Viện Thánh GIUSE / Tp HỒ CHÍ MINH
2 I. Lịch sử và tên gọi Trước nay chúng ta quen gọi những lời gợi ý cầu nguyện sau Tin Mừng hay bài giảng trong thánh lễ là lời nguyện giáo dân, hay lời nguyện chung cho mọi người. Những lời nguyện này đóng một vai trò quan trọng trong việc canh tân phụng vụ của Công Đồng Vatican II. Để hiểu ý nghĩa sâu xa của lời nguyện này, và để chuẩn bị các lời nguyện này trong cử hành thánh lễ cho đúng quy cách, chúng ta cùng nhau tìm hiểu việc hình thành lời nguyện này và ý muốn canh tân của Hội Thánh. Thực vậy, khi Công Đồng Vatican II tái lập những lời nguyện này trong cử hành thánh lễ hiện nay, Công Đồng không đưa ra một điều mới lạ, nhưng chỉ làm sống lại cách thực hành đã có từ những thế kỷ đầu của Giáo Hội 1 . Thánh Hip-pô-li-tô trong cuốn Truyền Thống Tông Đồ (Tradition Apostolique / thế kỷ 3) cho biết những lời nguyện này là phần dành riêng cho các tín hữu, những người đã được rửa tội. Vào thời Ngài, những người dự tòng không được tham dự vào ‘lời nguyện giáo dân’(Prière des fidèles), họ sẽ ra về sau cử hành Lời Chúa và ‘lời nguyện giáo dân’ mang đúng nghĩa của từ : là lời nguyện của người giáo dân, của người đã được rửa tội chứ không phải của nguời còn đang trong thời kỳ học đạo; nó thuộc thành phần của cử hành phụng vụ, nó kết thúc phụng vụ Lời Chúa và mở đầu phụng vụ Thánh Thể là phần chỉ dành cho người kitô hữu. Thánh Hip-pô-li-tô viết: “(Sau khi các dự tòng đã nhận phép thánh tẩy)...Từ nay, họ sẽ cầu nguyện với Dân Chúa, bởi vì họ không cầu nguyện với các tín hữu trước khi nhận phép thánh tẩy. Sau khi đã cầu 1 Pierre TOURNIER, la Prière universelle, trong cuốn ‘Dans vos assemblées’ sous la direction de J. GELINEAU, volume 2, Desclée, 1989, tr 438.
4 (litanie) do một phó tế xướng các ý nguyện, sau mỗi ý nguyện cộng đoàn Dân Chúa đáp bằng một công thức cố định dâng lên Chúa Kitô: Kyrie eleison. Dựa theo những lời nguyện này, chúng ta biết những lời nguyện ban đầu bên Đông Phương được dâng trực tiếp lên Chúa Kitô. Trong khi đó ở bên Tây phương vào thế kỷ thứ V, xuất hiện lời nguyện mà phụng vụ Rô-ma hiện đang duy trì vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh : phó tế xướng lên một ý nguyện, cộng đoàn thinh lặng đôi chút, chủ tế lấy lại ý nguyện vừa được phó tế gợi lên trong lời cầu xin của mình, sau cùng cộng đoàn đáp lại : Amen. Nội dung của các lời nguyện này thật phong phú, chúng là những lời cầu cho Giáo Hội, cho các nhà cầm quyền, cho mọi nhu cầu của nhân loại, và đã trở nên lời nguyện chung cổ kính và súc tích nhất của Hội Thánh hiện đang được bảo tồn. Thế rồi không hiểu vì lý do gì lời nguyện chung dần dần bị sao lãng trong phụng vụ Rô-ma, người ta không thấy dấu vết của nó ngay trong tập Sacramentaire léonien (tập Nghi thức các bí tích của giáo hoàng Lê-ô ) vào giữa thế kỷ thứ VI. Sự mai một về lời nguyện này kéo dài khá lâu trong phụng vụ Rô-ma, cho đến khi Công Đồng Vatican II tái lập kinh nguyện này lại trong thánh lễ. Qủa thực, nội dung kinh nguyện này thật đa dạng, nó là lời nguyện cho tất cả nhu cầu của con người. Giáo Hội mang trong lời cầu của mình toàn thể thao thức của nhân loại, vì thế không có gì liên hệ đến con người lại trở nên xa lạ trong lời cầu của Hội Thánh. Mặc dù thuở ban đầu kinh nguyện này là phần dành riêng cho các kitô hữu, nhưng khi canh tân phụng vụ, Công Đồng Vatican II không muốn phân biệt đây là kinh dành riêng cho các tín hữu như một thực thể biệt lập với chủ tế; hay biệt lập với kinh nguyện của các anh em dự tòng. Vậy để hiểu ý Công Đồng chúng ta cần nghiên cứu kỹ lại bản văn: ‘Phải tái lập “lời nguyện chung” (Oratio communis) hay “lời nguyện giáo dân” (fidelium ) sau phúc âm và bài giảng,