PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text 19 - Lý Thị Phương Lâm, Bùi Huỳnh Anh Nữ - Hình sự hoá quan hệ dân sự - kinh tế: Nguyên nhân, hệ quả và giải pháp hoàn thiện pháp luật.docx



3 nguyên nhân sâu xa của thực trạng này là nằm ở sự thiếu sót của quy định pháp luật. Bởi lẽ, trong trường hợp hệ thống pháp luật được xây dựng đầy đủ và vận hành hiệu quả, thì dù xuất phát từ động cơ tư lợi hay từ những nguyên nhân khách quan, cơ quan và người tiến hành tố tụng cũng sẽ không có khả năng chuyển hóa một tranh chấp dân sự thành một vụ án hình sự một cách tùy tiện. Chính vì vậy, việc nhận diện một số bất cập trong quy định pháp luật trước khi đưa ra những giải pháp phòng tránh hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế là cần thiết. Trong công trình này, nhóm tác giả nêu ra hai nguyên nhân chính yếu như sau: Một là, một số quy định trong Bộ luật Hình sự chưa được quy định rõ ràng. Theo đó, trước khi ra quyết định giải quyết vụ án theo pháp luật hình sự, cơ quan và người tiến hành tố tụng phải xác định liệu hành vi vi phạm đang xem xét có thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm theo Bộ luật Hình sự hay không. Khi này, người có thẩm quyền sẽ phải căn cứ vào các quy định về tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, một số tội danh theo pháp luật hiện hành gây nhiều khó khăn khi xác định tội phạm vì còn mơ hồ, chồng chéo. Trong số đó, các tội xâm phạm sở hữu là những tội danh cần phải sửa đổi để các yếu tố cấu thành tội phạm trở nên rõ ràng hơn nữa. Ví dụ, quy định về “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định rằng “Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác…: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.” (Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017). Theo quy định trên, thì hành vi “bỏ trốn” được xem là hành vi có tính chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, trong quan hệ dân sự, kinh tế, nhất là trong các giao dịch vay vốn, người đi vay có thể thay đổi việc làm, chỗ ở để kiếm tiền thanh toán khoản nợ đến hạn hoặc có thể vì lý do cá nhân khác 2 . Trong trường hợp này, rất khó xác định hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế có tính chất “chiếm đoạt tài sản” hay không. Vấn đề này có thể khiến cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng có các cách hiểu khác nhau về việc khi nào được coi là chiếm đoạt tài sản, từ đó dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Mặt khác, một số tội danh trong Bộ luật Hình sự mô tả dấu hiệu cấu thành tội phạm theo hướng “đã bị xử phạt vi 2 Lê Đình Nghĩa, “Bàn về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt”, Tạp chí Tòa án nhân dân, https://tapchitoaan.vn/ban-ve-cac-toi-xam-pham-so-huu-co-tinh-chiem-doat, truy cập vào ngày 16/8/2025.

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.