Nội dung text Tran Ngoc Mai - tom tat LA - Tieng Viet.pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ------μ------ TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP FDI TẠI VIỆT NAM, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP Ngành: Kinh tế quốc tế Mã số: 9.31.01.06 TRẦN NGỌC MAI Hà Nội – 2020
LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Chí Lộc Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp trường họp tại Đại học Ngoại thương Vào hồi giờ ngày tháng năm Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Thư viện trường Đại học Ngoại thương
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ - 1. Trần Ngọc Mai (2020), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh tự do thương mại quốc tế, tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 20 tháng 07/2020 (738), Năm thứ 53, tr 17- 20. 2. Ngoc Mai Tran (2020), Applying 2-stage DEA model to evaluate the corporate social responsibility implementing efficiency of FDI firms, Management Science Letters, 10 (2020) 2491-2500. 3. Trần Ngọc Mai (2019), Thực trạng thực hiện trách nhiệm xã hội đối với các đối tượng hữu quan của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 15 Tháng 05/2019 (697), tr 42-46. 4. Trần Ngọc Mai (2018a), Thực hiện trách nhiệm xã hội đối với các đối tượng hữu quan nhằm cải thiện danh tiếng của doanh nghiệp: nghiên cứu trường hợp của 208 doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố Hà Nội, tạp chí Kinh tế đối ngoại, Số 110 Tháng 10, 2018, tr 29-41. 5. Trần Nguyễn Hợp Châu (chủ nhiệm), Trần Ngọc Mai (thành viên) (2018b), Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài trong chiến lược kinh doanh - thực tiễn tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Ngân hàng.
1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Khởi nguồn từ các nước phát triển, sau đó thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) phát triển rộng ra ở các nước đang phát triển và Việt Nam không phải là ngoại lệ, đặc biệt trong xu thế hội nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Khái niệm CSR tại Việt Nam thường được xem xét từ khía cạnh của Chính phủ. Có nghĩa là, CSR thường là những yêu cầu, đòi hỏi từ phía Chính phủ trong quá trình hoạt động tại địa phương, các doanh nghiệp (DN) cần phải có trách nhiệm với địa phương nơi mình hoạt động. Ở góc tiếp cận này, các DN thực hiện CSR một cách bị động, và dưới góc độ chấp hành các quy định về pháp lý. Mặc dù vậy, trên thực tế, rất nhiều các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, thực hiện CSR một cách chủ động có thể mang lại rất nhiều lợi ích cho DN như nâng cao năng suất của người lao động, tăng mức độ trung thành, tăng hiệu quả hoạt động, cải thiện danh tiếng, cải thiện mối quan hệ với các bên liên quan của DN... do đó DN nên tiếp cận CSR một cách chủ động. Việc thực hiện CSR một cách chủ động không những giúp DN thỏa mãn các yêu cầu từ Chính phủ nước sở tại mà còn giúp DN đạt được các mục tiêu phát triển, mục tiêu chiến lược khác. Việc thực hiện CSR, nếu được các DN nhìn nhận một cách nghiêm túc sẽ tạo niềm tin cho người lao động và sự tin tưởng từ các nhà đầu tư. Do đó, bên cạnh hướng tiếp cận từ chính phủ coi thực hiện CSR như một nghĩa vụ và sự tuân thủ pháp luật, Luận án cũng đồng thời tiếp cận khái niệm CSR từ góc độ của chính DN, nhìn nhận CSR như một công cụ mà DN có thể sử dụng để quản trị mối quan hệ với các bên liên quan của DN qua đó đạt được các mục tiêu chiến lược. Trong các mục tiêu chiến lược của DN, mục tiêu duy trì và cải thiện danh tiếng dường như có vai trò quan trọng hơn cả. Danh tiếng không chỉ là mục tiêu mà còn là một bước trung gian giúp DN đạt được tất cả các mục tiêu còn lại. Một DN có danh tiếng tốt sẽ giúp tạo dựng sự tin tưởng đối với khách hàng, các đối tác, Chính phủ qua đó giúp cho hoạt động kinh doanh, phát triển của DN thuận lợi hơn, dễ dàng đạt được các mục tiêu về doanh số, thị trường, tài chính. CSR không phải là một khái niệm mới nhưng ngày càng trở nên phổ biến hơn ở các DN trên toàn cầu (KPMG, 2015; Porter, 2006; Reid & Toffel, 2009). Sự phát triển của CSR luôn đồng hành với sự phát triển của các dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển những năm 1990s (Goyal, 2005). Sự tham gia của các DN FDI có những tác động tích cực đến quốc gia nhận đầu tư thể hiện qua việc bổ sung vốn vào tổng vốn đầu tư quốc gia nhằm đạt được những mục tiêu tăng trưởng kinh tế; góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung thông qua việc tăng thẳng dư của cán cân vốn; tạo điều kiện cho các nước tiếp cận công nghệ