Nội dung text 23. Lí luận văn học theo các chủ đề.docx
2 nên cảm hứng chủ đạo hay cảm hứng tư tưởng. Quan niệm về thế giới và con người được dùng làm hệ quy chiếu để tác giả xác định đề tài, chủ đề, lý giải thế giới của tác phẩm có cội nguồn sâu xa trong thế giới quan. Cuối cùng, tương quan giữa sự biểu hiện của đời sống và sự cảm thụ chủ quan tạo nên nội dung thẩm mỹ của hình tượng. Nội dung tác phẩm là kết quả khám phá, phát hiện khái quát của nhà văn. Sự lược quy nội dung này vào các phạm trù xã hội học sẽ làm nghèo nàn nội dung tác phẩm. a. Các khái niệm về nội dung của tác phẩm văn học - Đề tài là lĩnh vực đời sống được nhà văn nhận thức, lựa chọn, khái quát, bình giá và thể hiện trong văn bản. Việc lựa chọn đề tài bước đầu bộc lộ khuynh hướng và ý đồ sáng tác của tác giả. - Chủ đề là vấn đề cơ bản được nêu ra trong văn bản. + Chủ đề thể hiện điều quan tâm cũng như chiều sâu nhận thức của nhà văn đối với cuộc sống. + Tầm quan trọng của chủ đề không phụ thuộc vào khuôn khổ văn bản, cũng không phụ thuộc vào việc chọn đề tài. Có những văn bản rất ngắn nhưng chủ đề đặt ra lại lớn lao (ví dụ bài Sông núi nước Nam của Lí Thường kiệt chỉ có 28 chữ nhưng là bản tuyên ngôn khẳng định chủ quyền). + Mỗi văn bản có thể có một hoặc nhiều chủ đề tùy quy mô, ý định của tác giả. - Tư tưởng của văn bản ( Thông điệp văn bản) là sự lí giải đối với chủ đề đã nêu lên, là nhận thức của tác giả muốn trao đổi, nhắn gửi, đối thoại với người đọc. Tư tưởng là /linh hồn của văn bản văn học. - Cảm hứng nghệ thuật là nội dung tình cảm chủ đạo của văn bản. Những trạng thái tâm hồn, những cảm xúc được thể hiện đậm đà, nhuần nhuyễn trong văn bản sẽ truyền cảm và hấp dẫn người đọc. Qua cảm hứng nghệ thuật, người đọc cảm nhận được tư tưởng, tình cảm của tác giả nêu trong văn bản. b. Các khái niệm thuộc về hình thức của tác phẩm văn học - Ngôn từ là yếu tố đầu tiên, là vật liệu, công cụ, lớp vỏ đầu tiên của tác phẩm văn học. Ngôn từ hiện diện trong từ ngữ, câu đoạn, hình ảnh, giọng điệu của văn bản được nhà văn chọn lọc hàm súc, đa nghĩa... mang dấu ấn của tác giả. - Kết cấu là sự sắp xếp tổ chức các thành tố của văn bản thành một đơn vị thống nhất chặt chẽ, hoàn chỉnh, có ý nghĩa. + Kết cấu hàm chứa dụng ý của tác giả sao cho phù hợp với nội dung văn bản. + Có nhiều cách kết cấu như kết cấu hoành tráng của sử thi, đầy yếu tố bất ngờ của truyện trinh thám, kết cấu mở theo dòng suy nghĩ của tùy bút, tạp văn… - Thể loại là những quy tắc tổ chức hình thức văn bản phù hợp với nội dung văn bản, hoặc có chất thơ, tiểu thuyết, kịch… thể loại có cải biến, đổi mới theo thời đại và mang sắc thái riêng của tác giả. - Cần lưu ý, không có hình thức nào là "hình thức thuần túy" mà hình thức bao giờ cũng "mang tính nội dung”. Vì vậy, trong quá trình tìm hiểu và phân tích tác phẩm, cầm chú ý
4 - Văn học là nơi tái hiện lại cuộc sống con người và khởi nguồn của sáng tạo nghệ thuật. Cuộc sống là muôn hình vạn trạng, là những cung bậc cảm xúc mà ta phải trải qua. Có những cảm xúc mông lung, mơ hồ và cũng có những quan điểm gần gũi, dễ hiểu. Có những quan điểm tương đồng với nhau, đồng thời cũng có những quan điểm trái ngược nhau nhưng tất thảy đều bổ sung và hoàn thiện cho nhau. Nếu như với thi hào Charles Dubos thì “văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng” thì với nhà văn Thạch Lam văn học là “một thứ vũ khí thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Văn học nói một cách đơn giản là một hình thái xã hội, một loại hình nghệ thuật dùng ngôn từ để thể hiện với chức năng phản ánh và tái tạo cuộc sống trên quan điểm thẩm mỹ qua lăng kính mang tính chủ quan của tác giả. Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu “người nghệ sĩ phải nhìn cuộc đời bằng đôi mắt toàn diện, phải thấy được những phức tạp của cuộc sống chứ không thể nhìn cuộc sống một cách dễ dãi, xuôi chiều. Chính vì lẽ đó mà văn học phát sinh và phát triển trên nền tảng cuộc sống xã hội. “Nghệ thuật là sự mô phỏng của tự nhiên” (Ruskin). Văn học là sự sáng tạo - sáng tạo trên những chất liệu vốn có góp nhặt được từ cuộc sống. Sáng tạo là quy luật đặc thù của văn học, là điều kiện tiên quyết của văn học. Theo Tề Bạch Thạch “nghệ thuật vừa giống vừa không giống với cuộc đời. Nếu hoàn toàn giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật mị đời. Còn nếu hoàn toàn không giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật dối đời”. Nghệ thuật thường vừa hư, vừa thật, vừa hiện thực vừa lãng mạn, vừa bình thường vừa phi thường. Mỗi tác phẩm văn học, mỗi nhân vật, mỗi câu chữ trong tác phẩm phải tạo được sự bất ngờ, lý thú đối với người đọc. Hình ảnh Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, hắn hiện lên là một con quỷ dữ làng Vũ Đại với dáng vẻ say khướt, tay cầm chai rượu ngất ngưỡng cất vang tiếng chửi đã trở thành một hình tượng độc đáo của văn học Việt Nam. Người đọc bao đời vẫn dâng lên cảm xúc đau đớn, xót xa trước sự quằn quại, quẫy đạp của con người trước Cách mạng tháng Tám khi ước mơ muốn được trở lại thành người lương thiện, khát khao có được một mái ấm gia đình tuy giản đơn nhưng đã trở thành một điều xa xỉ khó có thể vươn tới đối với họ trước những rào cản xã hội thời bấy giờ. Từ một hình tượng người nông dân quen thuộc trong xã hội cũ, nhà văn Nam Cao đã rất tài tình và tinh tế trong việc sáng tạo nên số phận vô cùng bi đát của nhân vật Chí Phèo để qua đó bày tỏ sự phẫn nộ, bất bình đối với xã hội cùng với sự đồng cảm, thương xót đối với những con người bất hạnh, khổ đau. Đó cũng chính là quan niệm sáng tác của ông “sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân”. Quá trình sáng tạo nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là một quá trình kép: vừa sáng tạo ra thế giới, vừa kiến tạo nên bản thân mình”. Đúng vậy! Sáng tạo nghệ thuật không phải là ngày một ngày hai, mà nó còn là cả một quá trình đi tìm khởi nguồn cho tác phẩm của mình. Một nhà văn nếu như chỉ ngồi yên một chỗ thì chẳng thế nào tạo nên một tuyệt tác, ghi dấu trong lòng người đọc, một nhà thơ nó chỉ nghĩ gì viết nấy mà không có cảm xúc, không có cảm hứng thì tác phẩm trở nên thật nhạt nhẽo. Tác phẩm