Nội dung text Chương 4 Giải phẫu tim 114-145.pdf
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 114 Giải phẫu tim GIỚI THIỆU Để có thể giải thích chính xác hình ảnh siêu âm tim thai, cần phải hiểu đầy đủ về giải phẫu tim thai (1,2). Tim là một cơ quan giải phẫu phức tạp và khi được chụp ảnh ở thai nhi, nó có kích thước nhỏ đến mức việc giải thích giải phẫu bình thường và bất thường trở nên khó khăn. Hơn nữa, xương sườn của thai nhi thường che khuất tim thai, đặc biệt là trong giai đoạn sau của thai kỳ, và việc chụp ảnh tối ưu tim thai phụ thuộc vào tuổi thai và vị trí của thai nhi trong buồng tử cung. Trong chương này, chúng tôi mô tả chi tiết giải phẫu tim thai và sử dụng mẫu vật giải phẫu và các bản vẽ để minh họa cho các điểm khác nhau. Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Tiến sĩ Anna Klassen (Orenburg, Nga) v‡ Cornelia Tennstedt- Schenk (Mühlhausen, Đức), những người đã cung cấp các mẫu vật giải phẫu được hiển thị trong chương này. Các hình ảnh đã được chỉnh sửa kỹ thuật số để làm nổi bật các vùng quan tâm khác nhau. KHOẢNG NGỰC Tim nằm ở phần trung tâm của khoang ngực ở trung thất giữa. Nó được bao bọc ở phía trước bởi hai phần ba dưới của xương ức và sụn sườn của xương sườn từ ngực thứ hai đến thứ sáu (1). Tim được bao bọc bởi phổi ở hai bên và phía sau và bởi cơ hoành ở phía dưới (Hình 4.1) (1). Một phần ba của tim nằm ở ngực phải và hai phần ba nằm ở ngực trái, khi ngực được chia đôi dọc theo mặt phẳng giữa (2). C H ƯƠNG 4
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 115 Hình 4.1: Mẫu vật giải phẫu của lồng ngực thai nhi nhìn từ phía trước sau khi loại bỏ xương ức và xương sườn. Một đường thẳng đứng (đường nét đứt) được vẽ qua giữa ngực, chia ngực thành hai nửa bằng nhau. Lưu ý vị trí của tim ở trung thất giữa, với phần lớn nhất nằm ở nửa ngực trái. Trục tim (mũi tên màu vàng) hướng về phía bên trái. Phổi phải (RL), phổi trái (LL) và cơ hoành bao quanh tim. Các thùy phổi: trên (s), giữa (m) và dưới (i) ở bên phải và trên (s) và dưới (i) ở bên trái, được dán nhãn. Tuyến ức được nhìn thấy ở phía trước của tim. Cl., xương đòn. Xương ức liên kết khoang ngực ở phía trước, cột sống ở phía sau và xương sườn ở hai bên (Hình 4.2). Xương đòn, xương sườn đầu tiên và thân của đốt sống đầu tiên bao bọc khoang ngực ở phía trên và cơ hoành ở phía dưới. Mặc dù các xương sườn riêng lẻ nghiêng về phía dưới ở người trưởng thành, nhưng ở thai nhi, xương sườn có xu hướng nằm ngang hơn trong khoang ngực. Theo hướng xương sườn này ở thai nhi, việc thu được các lát cắt ngang của bụng và ngực có thể chụp ảnh các đoạn lớn của các xương sườn riêng lẻ ở ngoại vi (HÏnh 4.2).
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 116 Hình 4.2: Mẫu vật giải phẫu của mặt cắt ngang lồng ngực thai nhi ở mức bốn buồng tim cho thấy tâm nhĩ phải (RA), tâm nhĩ trái (LA), tâm thất phải (RV), tâm thất trái (LV), vách liên thất (IVS) và vách liên nhĩ (IAS). Một đường thẳng đứng (đường nét đứt) được vẽ qua giữa ngực, chia ngực thành hai nửa trái và phải bằng nhau. Khoảng hai phần ba của tim nằm ở nửa ngực trái, với trục tim (mũi tên màu vàng) hướng về bên trái (so sánh với Hình 4.1). Lưu ý ở vùng sau tim có sự hiện diện của hai tĩnh mạch phổi (pv) dẫn lưu vào tâm nhĩ trái, động mạch chủ ngực (Ao) bên trái và trước cột sống (Sp), thực quản (Es) giữa Ao và LA, và phế quản phải (RB) và trái (LB). Tĩnh mạch đơn độc (AzV) được nhìn thấy ở bên phải của Sp. LL, phổi trái; RL, phổi phải. Tim ở thai nhi nằm ngang trong lồng ngực, và mặt phẳng nhìn bốn buồng tim của thai nhi thu được gần như cùng mặt phẳng với mặt phẳng ngang (trục) của ngực (Hình 4.2). Khi lớn lên, đỉnh tim xoay xuống dưới và tim sau sinh được định vị theo chiều dọc hơn trong
Biên dịch: Bs Nguyễn Chí Phồn Fb: Nguyễn Chí Phồn Zalo: 0982855594 117 khoang ngực (2). Xương sườn của thai nhi tương ứng với mặt phẳng nhìn bốn buồng tim là xương sườn ngực thứ tư (3). Phổi phải và trái lấp đầy phần lớn khoang ngực, với tim chiếm phần trung tâm. Phổi phải bao gồm ba thùy —trên, giữa và dưới—với một phế quản chính trên màng phổi ngắn. Phổi trái bao gồm hai th ̆y — trên và dưới — với một phế quản chính dưới màng phổi dài. Mỗi thùy phổi được chia nhỏ thành các tiểu thùy và được cung cấp bởi một phế quản thứ cấp. Các phế quản bậc ba cung cấp cho các phân đoạn khác nhau trong mỗi thùy. Các thùy phổi riêng lẻ không được nhìn thấy trên siêu âm trừ khi có liên quan đến tràn dịch màng phổi. Tuyến ức nằm ở trung thất trước trên, được bao bọc bởi xương ức ở phía trước và các mạch lớn ở phía sau (Hình 4.1). Trung thất sau là một khu vực giải phẫu trong ngực nằm ở trung tâm và sau tim (Hình 4.2). Các cấu trúc trong trung thất sau bao gồm động mạch chủ ngực xuống, khí quản, phế quản chính, thực quản, tĩnh mạch phổi và tĩnh mạch đơn độc. Ở trung thất sau trên, khí quản phân đôi, ở mức phân chia của động mạch phổi chính, thành hai phế quản chính đi vào rốn của mỗi phổi tương ứng. Thực quản nằm trước cột sống và sau khí quản ở trung thất sau trên. Ở vùng giữa ngực, qua khỏi mức phân đôi khí quản, thực quản đi theo hướng bụng hơn về phía bên trái của ngực và nằm giữa động mạch chủ ngực và tâm nhĩ trái (Hình 4.2). Sau đó, nó đi qua cơ hoành trái để nối với dạ dày. Tĩnh mạch đơn độc là một mạch máu nhỏ, nằm ở phía sau dọc theo cột sống hơi lệch về phía bên phải (HÏnh 4.2). Tĩnh mạch đơn độc tạo thành một vòm khi nó dẫn lưu vào tĩnh mạch chủ trên (SVC) ở mức phân đôi của khí quản. Bốn tĩnh mạch phổi (hai tĩnh mạch phải và hai tĩnh mạch trái) đi vào tâm nhĩ trái ở phía sau. Các tĩnh mạch phổi dưới bên trái và bên phải được nhìn thấy ở mặt phẳng nhìn bốn buồng tim (Hình 4.2) và các tĩnh mạch phổi trên bên trái và bên phải được nhìn thấy ở mức mặt phẳng đường ra tâm thất trái (mặt phẳng nhìn năm buồng tim). Bốn tĩnh mạch phổi neo tim vào ngực. MẶT NGO¿I TIM Mặt ngoài của tim được nhìn thấy từ phía trước ngực và cho thấy các buồng tim và các động mạch lớn (Hình 4.1 và 4.3).