Nội dung text 1725610252-19. Tội cố ý làm trái các quy định về quản lý kinh tế - Ls NVT.docx
BÀI BÀO CHỮA Cho bị cáo V.T.H trong vụ án “cố ý làm trái các quy định về quản lý kinh tế của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng” Kính thưa Hội đồng xét xử! Vụ án đã được khởi tố ngày 19-6-2008 đến nay đã hơn 4 năm. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao (VKSNDTC) đã 2 lần có công văn chỉ đạo cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT), kết quả là đã thay đổi tội danh từ tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” sang tội danh “cố ý làm trái các quy định về quản lý kinh tế của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng”, giảm phần thiệt hại từ 4.751.967.474 đồng xuống còn 4.463.446.868 đồng và đã miễn trách nhiệm hình sự đối với H.T.T.L và T.V.D. Căn cứ kết quả xét hỏi và tranh luận tại phiên toà trong các ngày 25-26-27/5/2011, Toà án Nhân dân TP. H đã “xét thấy cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên toà được” nên đã quyết định trả hồ sơ để điều tra những vấn đề sau đây: - Cần làm rõ thiệt hại do nhóm các bị cáo bị truy tố về hành vi cố ý làm trái gây ra cho Công ty CP Vật tư B trong thời kỳ 2003-2007 là bao nhiêu. - Cần làm rõ những chi phí thực tế do các bị cáo phụ trách các trung tâm trực thuộc Công ty Cổ phần Vật tư B (nhóm bị truy tố) với những người phụ trách trung tâm trong thời gian này nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì theo trình bày của những người này thì những chi phí trên là cần thiết, có tác dụng thúc đẩy đơn vị kinh doanh có hiệu quả. - Trong hồ sơ có các công văn 945/TH, 946/TH cùng ngày 14-8-2009 của tập thể HĐQT Công ty CP vật tư B nhiệm kỳ 2003-2007 xác định thời kỳ này việc kinh doanh của công ty có hiệu quả tăng trưởng cao. Tại toà, đại diện nguyên đơn dân sự cũng không xác định được thiệt hại (hậu quả) của vụ án”. Tại kết luận điều tra bổ sung số 06/C48 (P8) ngày 17-8-2011, cơ quan CSĐT-Bộ Công an đã xác định: Căn cứ Công văn số 2.../C48 (P8) ngày 29-6-2010 của Cơ quan CSĐT- Bộ Công an gởi Vụ 1B-VKSNDTC đến nay không thay đổi… giữ nguyên như nội dung kết luận điều tra bổ sung số .../C37 (P8) ngày 15-10-2009, số .../C37 ngày 21-3-2010 của cơ quan CSĐT-Bộ Công An. Căn cứ kết luận điều tra này, nội dung Cáo trạng số .../C37- V1B ngày 17-11-2011 của VKSNDTC đối với bị cáo V.T.H và các giám đốc trung tâm
kinh doanh khác không có gì thay đổi. Như vậy, những yêu cầu của vụ án đã không được cơ quan CSĐT thực hiện. “Những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên toà được” đã không được cơ quan CSĐT bổ sung làm rõ. Qua xét hỏi tại phiên toà cũng không bổ sung được gì mới. Chúng tôi thực sự lo lắng không biết quý toà sẽ phán xét thế nào đây?!. Vì vậy, để tránh mất thời gian quý toà, tôi xin phép không lặp lại toàn bộ nội dung bài bào chữa cho bị cáo V.T.H mà tôi đã phát biểu và nộp cho quý toà trong phiên xử sơ thẩm các ngày 25-26-27/7/2012. Tôi chỉ xin nêu một số ý chính sau đây, với hy vọng giúp Hội đồng xét xử (HĐXX) làm sáng tỏ những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà cơ quan CSĐT đã không làm rõ theo yêu cầu của Quý toà. I. Về mặt hành vi: Cáo trạng cho rằng V.T.H đã vi phạm Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22-12-2003 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Nghị định 129/2004/NĐ-CP qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Kế toán áp dụng trong hoạt động kinh doanh. Về việc này, chúng tôi xin có ý kiến như sau: 1. Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22-12-2003 quy định: - Không tính vào chi phí hợp lý các khoản sau: Các khoản chi không có hoá đơn chứng từ, hoặc hoá đơn chứng từ không hợp pháp (khoản 3 Điều 6). - Quá trình kiểm tra, thanh tra kê khai quyết toán thuế nếu phát hiện thu nhập chịu thuế và các yếu tố khác do cơ sở kinh doanh xác định không hợp lý, cơ quan thuế có quyền xác định lại thu nhập chịu thuế và các yếu tố khác để đảm bảo thu đủ, thu đúng thuế thu nhập doanh nghiệp (Điều 30). - Cơ sở vi phạm Luật thuế TNDN thì tuỳ mức độ cơ quan thuế xử lý vi phạm hành chính về Luật thuế (Điều 31-49). 2. Nghị định 129/2004/NĐ-CP quy định: Đơn vị kế toán phải sử dụng hoá đơn bán hàng theo đúng quy định; không được mua, bán tráo đổi, cho hoá đơn hoặc sử dụng hoá đơn của tổ chức, cá nhân khác, không được sử dụng hoá đơn để kê khai trốn lậu thuế (khoản 4 Điều 10). 3. Nghị định 185/2004/NĐ-CP ngày 04-11-2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán quy định: - Hành vi vi phạm lĩnh vực kế toán dẫn đến trốn, lậu thuế còn bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế (Điều 17).
- Vi phạm quy định về chứng từ kế toán : Giả mạo, khai man chứng từ kế toán, thoả thuận người khác giả mạo khai man chứng từ kế toán, bị xử phạt từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. (điểm a-b khoản 3 Điều 7). 4. Nghị định 100/2004/NĐ-CP ngày 25-02-2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, quy định: - Phạt tiền từ 3-5 lần số trốn thuế đối với hành vi sử dụng hoá đơn khống, chứng từ kế toán khống nhằm mục đích giảm số thuế phải nộp (điểm a khoản 3 Điều 11). Tổng Giám đốc là đại diện theo pháp luật của công ty và kế toán trưởng mới có thẩm quyền ký, đăng ký kê khai, báo cáo và quyết toán thuế. Hành vi của V.T.H thoả thuận với các đơn vị vận tải, ký khống hợp đồng vận chuyển và xuất hóa đơn để hợp thức hóa các khoản chi phí thực tế nhưng không có chứng từ là thực hiện chủ trương của công ty. Từ phó tổng giám đốc, trưởng ban kiểm soát, thành viên HĐQT, chủ tịch công đoàn đến toàn thể CBNV 7 trung tâm đều thực hiện một qui trình giống nhau kéo dài từ 2003 đến 2007. Do đó, nếu có vi phạm Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22-12-2003 và Nghị định 129/2004/NĐ-CP của Chính phủ thì chỉ có công ty vi phạm và cũng chỉ làm lợi cho công ty, mà người chịu trách nhiệm trước cơ quan thuế là tổng giám đốc và kế toán trưởng. Căn cứ các quy định viện dẫn trên thì công ty cũng chỉ bị xử lý: Xuất toán các khoản chi phí đã hợp thức hóa bằng chứng từ khống, truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp và phạt tiền đối với số thuế bị truy nộp theo Nghị định 100/2004/NĐ-CP, và xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực kế toán theo Nghị định 185/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Tại kết luận giám định số 01/05/2009/KLGĐ-TCKT ngày 14-5-2009, giám định viên tư pháp về KTTC đã nhận xét: “Trách nhiệm chính thuộc về các TTKD và cửa hàng bán lẻ chủ yếu để lấy hoá đơn đỏ VAT (vì đây là hóa đơn thật do các đơn vị kinh doanh vận tải mua tại cơ quan thuế) làm cơ sở chứng từ gốc hợp pháp (nhưng không hợp lệ) để lập phiếu chi thanh toán cho các chi phí của đơn vị nhưng không có chứng từ chứng minh là việc làm sai nguyên tắc, các khoản chi này không được tính chi phí hợp lý, hợp lệ, làm tăng chi phí (không hợp lý, hợp lệ) giảm phần thu nhập chịu thuế của Cty, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước”. Công ty Cổ phần Vật tư B là doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, đăng ký kinh doanh ngày 23-12-2003. Theo quy định tại Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 22-12-2003 của Chính phủ về cổ phần hóa thì Công ty Cổ phần Vật tư B được miễn thuế TNDN 2 năm 2004-2005 và giảm 50% thuế TNDN cho 3 năm tiếp theo (2006-2007-2008). Đến nay, cơ quan thuế cũng chưa có kết luận về việc xử phạt này, nên cũng chưa có căn cứ xác định thất thu bao nhiêu tiền thuế cho ngân sách Nhà nước. Kết luận giám định cho rằng các giám đốc TTKD và cửa hàng bán lẻ đã gây thiệt hại cho Cty CP-VT B từ năm 2003-2007 số tiền 4.751.967.474 đồng và buộc các đối
tượng nộp lại số tiền nêu trên, kết luận này mâu thuẫn với chính nhận xét nêu trên của kết luận giám định, mâu thuẫn chính ý kiến xác nhận của ông Đ.T.H2-Tổng Giám đốc Cty trước đây và ý kiến của đại diện Cty tại cả 2 lần xét xử sơ thẩm! II.Về hậu quả thiệt hại: Tại văn bản số ... ngày 10-8-2009 gởi Ông Vụ trưởng Vu IB, Tổng Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần Vật Tư B đã xác định: Các chi phí này là có thực và phục vụ cho mục tiêu hoạt động SXKD của công ty nhằm mang lại doanh thu, lợi nhuận cho toàn thể cổ đông, trong đó có cổ đông Nhà Nước, Tập đoàn bưu chính viễn thông X, các chi phí này đều được đánh giá là hợp lý và thực chất không gây thiệt hại cho Công ty. Kết luận điều tra bổ sung và cáo trạng cũng đã xác nhận: Các khoản chi phí này là thực tế nhưng không có chứng từ quyết toán, không chiếm đoạt cá nhân. Hàng năm công ty đều giao các chỉ tiêu kế hoạch cho trung tâm gồm: Doanh thu, lãi gộp và định mức khoán chi phí trên lãi gộp. Đây là các chỉ tiêu bắt buộc. Căn cứ “ Bảng tổng hợp tình hình thực hiện chi phí của TTKD1 từ năm 2003-2006” đã được nguyên Tổng Giám đốc N.Q.H1, nguyên Kế toán trưởng H.H.A và Tổng Giám đốc Đ.T.H2 ký xác nhận, thì Trung tâm KD1 đã tiết kiệm được chi phí so định mức là 720.991.554 đồng và lãi gộp thực hiện là 15.932.499.247 đồng. Dấu hiệu bắt buộc của tội cố ý làm trái... là gây hậu quả nghiêm trọng. Các khoản chi phí này là có thực, phục vụ cho hoạt động SXKD của Cty, nằm trong định mức khoán cho phép chẳng những không gây thiệt hại cho Cty mà còn tiết kiệm 720.991.554 đồng và mang lợi nhuận về cho Cty 15.932.499.247 đồng. Cáo trạng truy tố V.T.H về tội “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo khoản 2 Điều 165 Bộ Luật Hình sự (nay đã bị bãi bỏ trong Bộ luật Hình sự năm 2015) với quy kết đã gây thiệt hại cho Công ty cổ phần Vật tư B số tiền là 596.643.000 đồng. Số tiền này, như trên đã chứng minh, cáo trạng và công ty đều xác nhận là chi phí thực tế cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Cty và TTKD1, nằm trong định mức khoán cho phép được Cty chấp nhận, không gây thiệt hại cho Cty, mà còn tiết kiệm được 720.991.554 đồng so với định mức khoán chi phí của Công ty. Việc sử dụng các chi phí này phục vụ SXKD của TTKD1, do V.T.H làm Giám đốc trong các năm từ 2003-2006, đã đem về cho Cty doanh thu 140.100.972.114 đồng và làm lợi cho Cty 15.932.499.247 đồng (lãi gộp)! Không gây thiệt hại 596.643.000 đồng mà còn tiết kiệm được 720.991.554 đồng chi phí và đem lợi về Cty trên 15 tỷ đồng lãi gộp, lẽ nào là hành vi phạm tội!?