PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text 1727258936-38_Luận cứ bảo vệ tranh chấp đòi nhà và chia thừa kế.docx

LUẬN CỨ BẢO VỆ (V/v: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trong vụ án “Tranh chấp đòi nhà và chia thừa kế” tại phiên tòa phúc thẩm) Kính thưa : HỘI ĐỒNG XÉT XỬ ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT Văn phòng Luật Sư V có nhận đơn yêu cầu Luật Sư của ông N.T.H1 Sinh năm:1948,Thường trú: ... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1 Là bị đơn trong vụ kiện “Tranh chấp đòi nhà và chia thừa kế” với nguyên đơn: bà T.T.C1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: N.T.T1 và T.T.L, hiện do Tòa án nhân dân Thành phố H1 thụ lý giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. I. VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG : Bản án sơ thẩm số:43/2012/DSSTngày 31/07/2012 và cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng , cụ thể : ● Thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí : Theo hồ sơ và Bản án sơ thẩm thể hiện ông P.H.T2, Sinh năm :1960,Thường trú: … H2, phường M2, quận S thành Phố H1 là Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nhưng Tòa án không cho nộp tiền tạm ứng án phí là vi phạm tố tụng ( Ngày 03/05/2012 ông P.H.T2 có đơn yêu cầu tranh chấp thừa kế và Tòa án ra Thông báo nộp tiến tạm ứng án phí ngày 03/05/2012 – 18/05/2012 ; Ngày 15/05/2012 ông P.H.T2 nộp đơn xin miễn giãm tiền tạm ứng án phí và Tòa án đã xét miễn giãm 50% và Tòa án giao Thông báo nộp tạm ứng án phí ngày 15/05/2012 – 30/05/2012 . Ngày 26/07/2012 ông P.H.T2 đến nộp tiền tạm ứng án phí nhưng không được chấp nhận (CV số : 09/TAQ8 ngày 27/07/2012) ngày 26/07/2012 ông P.H.T2 làm đơn khiếu nại và ngày 27/07/2012 Chánh án trả lời đơn khiếu nại ). Ngày 27/07/2012 Tòa án mở phiên tòa xét xử .Việc Tòa án không xem xét cho ông P.H.T2 nộp tiền tạm ứng án phí là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ● Thủ tục định giá : Theo bản tự khai, Biên bản hòa giải các đương sự : T.T.C1, P.H.T2 và ông N.T.H1 thì căn nhà số: ... quận Bến B1, huyện phường M1, quận T, Thành Phố H1 có sữa chữa, cụ thể : Sửa nền ,lợp lại mái nhà, sữa nhà vệ sinh,sữa lại bếp,sữa đường thoát nước …….. Nhưng Hội đồng định giá không định giá và xác định giá trị các phần sữa chữa làm cơ sở giải quyết vụ án :
- Biên bản định giá ngày 21/04/2010: Phần không phù hợp :4.262.400 đồng , Phần phù hợp quy hoạch là 783.200.000 đồng . Tổng giá trị đất : 787.462.400 đồng . Tổng giá trị xây dựng: 95.027.400 đồng . Như vậy tổng giá trị nhà + đất :882.489.800 đồng - Biên bả định gía ngày 29/09/2011giá trị đất : Phần phù hợp quy hoạch :534.000.000 đồng, Phần không phù hợp:4.262.400 đồng .Tổng giá trị xây dựng là :87.108.450 đồng . Tổng giá trị nhà + đất : 625.370.850 đồng Việc Hội đồng định giá không xác định phần giá trị sữa chữa nhà của ông H1, T2 làm cơ sở giải quyết vụ án đã làm ãnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của ông H1 và ông T2 ● Không triệu tập và đưa những Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng : Ngày 13/11/1984 ông C3,X ,H1 ủy quyền cho ông A hợp thức hóa căn nhà :70/6 Bis Cư Xá Đ, phường N, Bến B1, thành Phố H1 . Ngày 09/07/1986 ông N.Q.A làm giấy giao kết bán căn nhà số : 70/6 Bis Cư Xá Đ, phường N, Bến B1, thành Phố H1 cho ông L.V.T3 giá 5 lượng 15 phA vàng và ngày 08/12/1986 bà T.T.C1 ký tên nhận 5 lượng 15 phA vàng (BL88) . Ngày 15/09/1986 ông N.Q.A thỏa thuận mua bán nhà với ông N.V.Q căn nhà số : ... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1 với giá là 09 chỉ vàng 24kara : ngày 15/09/1986 ông N.Q.A đặt cọc 01 chỉ vàng 24 kara cho ông Như Văn Q và các lần thanh toán cụ thể :23/09/1986:01 chỉ 24kara ; ngày 16/12/1986 : 04 chỉ vàng 24kara ; ngày 26/01/1987 :01 chỉ vàng 24 kara . Tổng cộng là 07 chỉ vàng 24 kara ( chỉ có ông A thanh toán tiền ). Còn lại 02 chỉ chưa thanh toán Ngày 02/12/1991 ông N.V.Q ký tên văn tự mua bán cho ông N.Q.A và T.T.C1 . Thời điểm này bà V.T.C2 đã chết thì những Người con của ông N.V.Q và bà V.T.C2 là Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án . Theo hồ sơ không thể hiện phần thanh toán 02 chỉ vàng còn lại và căn nhà ... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1 vA chưa được cấp GCNQSHN Ở và QSDĐỞ nên nhất thiết phải đưa ông N.V.Q và các con của ông N.V.Q và bà V.T.C2 vào tham gia tố tụng với tư cách là Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án Theo tờ khai đăng ký nhà – đất ngày 27/08/1999 ghi họ và tên Người đăng ký là ông N.Q.A và bà P.T.H2 do đó cần đưa bà P.T.H2 vào tham gia tố tụng với tư cánh là Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án ( Xác định công sức đóng góp của bà P.T.H2 ) có xác nhận của địa phương ngày 20/09/1999 II. VỀ NỘI DUNG : Về nguồn gốc căn nhà số ... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1: Theo hồ sơ thể hiện thì ông N.Q.A là con của ông N.T.T4 ( chết ngày 05/07/1981) và bà T.T.P
(chết ngày 05/05/1981 ) .Khi còn sống ông N.T.T4 và bà T.T.P có tạo dựng căn nhà tại số 70/6 Bis Cư Xá Đ, phường N, bến B1, thành Phố H1. Ngày 13/11/1984 ông C3,X ,H1 ủy quyền cho ông A hợp thức hóa căn nhà :70/6 Bis Cư Xá Đ, phường N,Bến B1, thành Phố H1 . Ngày 09/07/1986 ông N.Q.A làm giấy giao kết bán căn nhà số : 70/6 Bis Cư Xá Đ, phường N, bến B1, thành Phố H1 cho ông L.V.T3 giá 5 lượng 15 phA vàng và ngày 08/12/1986 bà T.T.C1 ký tên nhận 5 lượng 15 phA vàng (BL88) . Ngày 15/09/1986 ông N.Q.A thỏa thuận mua bán nhà với ông N.V.Q căn nhà số :... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1 với giá là 09 chỉ vàng 24kara : ngày 15/09/1986 ông N.Q.A đặt cọc 01 chỉ vàng 24 kara cho ông N.V.Q và các lần thanh toán cụ thể như sau :ngày 23/09/1986 thanh toán : 01 chỉ 24kara ; ngày 16/12/1986 thanh toán 04 chỉ vàng 24kara ; ngày 26/01/1987 thanh toán 01 chỉ vàng 24 kara . Tổng cộng là 07 chỉ vàng 24 kara ( chỉ có ông A thanh toán tiền ). Còn lại 02 chỉ chưa thanh toán . Như vậy có đủ cơ sơ xác định nguồn gốc tiền mua can nhà số: ... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1 là tiền bán căn nhà số : 70/6 Bis Cư Xá Đ, phường N,Bến B1, thành Phố H1 của Cha mẹ ông A,H1,C3 và X vào năphường M1986 (BL:7980,81,8283,87,88,90,265 và 266 ) Căn cứ vào giấy giao kế mua bán nhà ngày 15/09/1986 thể hiện chỉ có ông N.Q.A ký hợp đồng giao kết với ông N.V.Q và khi thanh toán tiền cũng có ông N.Q.A thanh toán. Ngược lại bà T.T.C1 hoàn toàn không chứng minh là bà có cùng bỏ tiền ra thanh toán tiền cho ông Q nhưng phía bị đơn có căn cứ chứng minh ông N.Q.A dùng tiền bán căn nhà 70/6 Bis Cư Xá Đ, phường N, bến B1, thành Phố H1 để mua căn nhà ... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1 như đã trình bày ở trên. Theo chứng cứ do Bị đơn cung cấp thì khi bán căn nhà 70/6 Bis Cư Xá Đ, phường N, bến B1, thành Phố H1 chính bà T.T.C1 ký tên ngày 08/12/1986 xác nhận đã nhận đủ 5 lượng 15 phA vàng (BL88) .như vậy có thể khẳng định căn nhà số ... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1 không phải là tài sản riêng của ông N.Q.A mà thực chất là của ông N.Q.A,N.V.C3,N.T.X và N.T.H1 và ông N.Q.A chỉ đứng ra đại diện anh em bán căn nhà số 70/6 Bis Cư Xá Đ, phường N, bến B1, thành Phố H1 để mau căn nhà ... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1 thờ tự ông bà,cha mẹ . Do đó không có căn cứ cho rằng căn nhà số : ... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1 là tài sản chung của ông N.Q.A và bà T.T.C1 nên yêu cầu của bà T.T.C1 là không có cơ sở chấp nhận Tại các bản tự khai của bà N.T.T1 và bà T.T.L xác định sau ngày 30/04/1975 ông N.Q.A về nam và giữa hai Người không gặp nhau cho đến nay nên có thể khẳng định căn nhà số ... Bến B1, phường M1, quận T thành Phố H1 không phải là tài sản chung của vợ chồng bà N.T.T1 và ông N.Q.A nên cấp sơ thẩm căn cứ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (nay là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014) để chia tài sản chung vợ chồng là không đúng quy định của pháp luật. Về bà T.T.L thể hiện ngày 07/02/1974 ông T.Đ.Đ có
kết hôn với bà N.T.T1 và theo lời khai của bà N.T.T1 thì bà T.T.L là con của ông T.Đ.Đ với bà nhưng bà không cung cấp chứng cứ chứng minh T.T.L là con của ông T.Đ.Đ ( N.Q.A ) nên bản án chia thừa kế cho bà T.T.L là không có cơ sở chấp nhận Về án phí : Ban án sơ thẩm tuyên án phí là không đúng quy định của pháp luật . Xin trA trọng cảm ơn.

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.