Nội dung text SINH LÝ CÁC DỊCH CỦA CƠ THỂ.doc
1 BÀI 8. SINH LÝ CÁC DỊCH CỦA CƠ THỂ Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng: 1. Nêu được thành phần hoá học và các chức năng của huyết tương. 2. Trình bày được chức năng của dịch kẽ, sự tạo thành dịch kẽ và tái hấp thu dịch trở lại huyết tương. 3. Trình bày được thành phần hoá học của dịch bạch huyết, chức năng của hệ thống bạch huyết và các yếu tố ảnh hưởng tới lưu lượng bạch huyết. 4. Trình bày được hàng rào máu - dịch não tuỷ, hàng rào máu - não, thành phần hoá học và chức năng của dịch não tuỷ. 5. Trình bày được sự tạo thành, sự tái hấp thu và áp suất dịch nhãn cầu. Khoảng hai phần ba lượng dịch của cơ thể nằm ở bên trong các tế bào được gọi là dịch nội bào. Phần còn lại nằm bên ngoài tế bào là dịch ngoại bào. Hai loại dịch này ngăn cách nhau bởi màng tế bào. Dịch ngoại bào chủ yếu và lưu thông khắp cơ thể gồm huyết tương, dịch kẽ và dịch bạch huyết. Huyết tương là thành phần lỏng của máu, ngăn cách với dịch kẽ bởi màng mao mạch. Dịch kẽ là dịch trực tiếp bao quanh các tế bào. Dịch bạch huyết nằm trong các mạch bạch huyết. Ngoài ra còn có một loại dịch ngoại bào đặc biệt gọi là dịch xuyên bào gồm dịch não tuỷ, dịch nhãn cầu, dịch ổ khớp… Dịch xuyên bào chiếm tỷ lệ rất nhỏ nhưng có những chức năng sinh lý quan trọng. Dịch của cơ thể chứa nước và các chất hoà tan, trong đó nước là thành phần quan trọng nhất. Tỷ lệ thành phần của nước so với trọng lượng cơ thể dao động trong khoảng từ 45% đến 75% tuỳ thuộc chủ yếu vào số lượng mỡ của cơ thể. Tỷ lệ nước chỉ chiếm 10% trong các mô mỡ nhưng lại chiếm tới 70 đến 75% trong các mô khác. Do đó người béo có tỷ lệ nước ít hơn người gầy. Nữ có tỷ lệ nước ít hơn nam vì khối cơ của họ nhỏ hơn và lượng mỡ dưới da nhiều hơn nam. Tuổi càng cao, tỷ lệ nước của cơ thể càng giảm vì mô cơ giầu nước bị thay thế dần bằng mô mỡ chứa ít nước. Một người đàn ông còn trẻ, khoẻ mạnh, cân nặng 70kg, có tỷ lệ nước là 60% trọng lượng cơ thể, nghĩa là có khoảng 42 lít nước. Các dịch của người này được phân bổ như sau: - Dịch nội bào: 40% trọng lượng cơ thể; 28 lít nước. - Dịch ngoại bào gồm: + Dịch kẽ: 15% trọng lượng cơ thể; 10,5 lít nước. + Huyết tương: 5% trọng lượng cơ thể; 3,5 lít nước.
2 1. THÀNH PHẦN CỦA DỊCH NỘI BÀO VÀ DỊCH NGOẠI BÀO Bảng 8.1. Các chất thẩm thấu trong dịch ngoại bào và dịch nội bào. Chất thẩm thấu Huyết tương mosm/lít nước Dịch kẽ mosm/lít nước Dịch nội bào mosm/lít nước Na + K + Ca 2+ Mg 2+ Cl - HCO 3 - HPO 4 2- , H 2 PO 4 - SO 4 2- Phosphocreatin Carnosin Acid amin Creatin Lactate ATP Hexomonophosphat Glucose Protein Urê Các chất khác Tổng mosm/lít 142 4,2 1,3 0,8 108 24 2 0,5 0 0 2 0,2 1,2 0 0 5,6 1,2 4 4,8 301,8 139 4,0 1,2 0,7 108 28,3 2 0,5 0 0 2 0,2 1,2 0 0 5,6 0,2 4 3,9 300,8 14 140 0 20 4 10 11 1 45 14 8 9 1,5 5 3,7 0,0 4 4 10 301,2 Áp suất thuỷ tĩnh toàn phần ở 37 o C (mmHg) 5443 5423 5423 Từ bảng 8.1 so sánh về thành phần của dịch nội bào và dịch ngoại bào, ta có thể đưa ra những nhận xét sau: - Huyết tương và dịch kẽ ngăn cách nhau bởi thành mao mạch. Sự trao đổi giữa nước và các phân tử nhỏ (các chất điện giải) giữa huyết tương và dịch kẽ diễn ra rất nhanh. Trong một phút có khoảng 70% dịch huyết tương được trao đổi với dịch kẽ, do đó nồng độ nước và các chất điện giải của huyết tương và dịch kẽ gần giống nhau. Sự khác nhau duy nhất giữa hai dịch này là nồng độ protein trong huyết tương cao hơn trong dịch kẽ vì các phân tử protein có kích thước quá lớn nên không thể dễ dàng qua
3 được thành mao mạch. Protein ở lại trong mạch và đóng vai trò quyết định trong sự phân bố nước giữa huyết tương và dịch kẽ. - Dịch ngoại bào chứa rất nhiều ion natri, clo và một số lượng vừa phải ion bicarbonat, nhưng chỉ có rất ít ion kali, ion calci, ion magiê, ion phosphat và các ion acid hữu cơ. Thành phần của dịch ngoại bào được điều hoà chặt chẽ bởi những cơ chế khác nhau, đặc biệt là bởi thận. Do đó các tế bào luôn được “tắm” trong một dịch chứa các chất dinh dưỡng và các chất điện giải với nồng độ thích hợp cho các hoạt động của tế bào. - Thành phần của dịch nội bào: Màng tế bào ngăn cách dịch nội bào và dịch ngoại bào có tính thấm chọn lọc nghĩa là chỉ thấm nước nhưng không cho hầu hết các chất điện giải thấm qua. Dù khư trú trong từng tế bào nhưng dịch nội bào của tất cả các loại tế bào đều giống nhau. Dịch nội bào chứa một lượng nhỏ ion natri và ion clo, hầu như không có ion calci, nhưng chứa một lượng rất lớn ion kali, một lượng vừa phải ion phosphat, ion magiê, ion sulphat, nồng độ protein nội bào cao gấp bốn lần trong huyết tương. Sở dĩ dịch nội bào có nồng độ ion kali cao và nồng độ ion natri thấp là do hoạt động của bơm Na + -K + -ATPase. Bơm này liên tục bơm ion kali vào và bơm ion natri ra khỏi tế bào. Ngoài ra nồng độ ion clo và ion bicarbonat thấp hơn là do sự chênh lệch của điện thế màng (vào khoảng -90 mV) có tác dụng đẩy các ion âm này ra ngoài. Sự phân bố ion trong các bào quan của tế bào cũng khác nhau. Ví dụ, nhân tế bào có nồng độ ion natri cao hơn nồng độ ở các bào quan khác. Trong tế bào cơ xương, hầu hết ion calci nội bào nằm trong mạng nội cơ tương và ty thể, nồng độ calci trong bào tương hầu như bằng không. - Cả ba loại dịch: Huyết tương, dịch kẽ và dịch nội bào đều có cùng một áp suất thẩm thấu. 2. HUYẾT TƯƠNG 2.1. Thành phần của huyết tương Huyết tương là dịch lỏng của máu, trong suốt, màu vàng nhạt, có thể tách huyết tương khỏi máu toàn phần bằng cách quay ly tâm. Giữ yên huyết tương trong ống nghiệm, huyết tương sẽ đông trong vòng vài phút. Huyết thanh là dịch lỏng được tách ra từ máu đã bị đông, như thế thành phần của huyết tương và huyết thanh về cơ bản là giống nhau nhưng huyết thanh không có các yếu tố đông máu nên không đông được. Trong một lít huyết tương của người bình thường có khoảng 930 gam nước và 70 gam các chất hoà tan, trong đó có 60 gam protein; 8g các ion vô cơ như natri, kali, clo, bicarbonat; 2 gam các chất hữu cơ không phải protein như glucose, lipid. Huyết tương cũng chứa các khí oxy, CO 2 , nitơ, các vitamin, enzym, hormon, sắc tố và chất khoáng, các chất dinh dưỡng như acid amin, các sản phẩm chuyển hoá tế bào như urê, acid uric. Bảng 8.2 liệt kê các thành phần chủ yếu của huyết tương. 2.2. Chức năng của các protein huyết tương Dùng kỹ thuật điện di người ta có thể tách các protein huyết tương thành albumin, globulin ( 1 , 2 , 1 , 2 và ) và fibrinogen. Do kích thước lớn, các protein được xếp vào loại chất keo. Các protein huyết tương có nhiều chức năng quan trọng. Bảng 8.2. Các thành phần chủ yếu của huyết tương Thành phần Nồng độ Protein Toàn phần Albumin Globulin Acid amin Lipid Toàn phần Cholesterol Phospholipid Triglycerid Glucose Urê Creatinin Acid uric Bilirubin Na + K + Ca 2+ Mg 2+ Cl - HCO 3 - HPO 4 2- , H 2 PO 4 - SO 4 2- 6 – 8 g/dl 3,5 – 5,5 g/l 1,5 – 3,0 g/dl 300 mg/dl 450 – 650 mg/dl 150 – 240 mg/dl 145 – 225 mg/dl 125 – 200 mg/dl 70 – 100 mg/dl 8 – 25 mg/dl 0,7 – 1,5 mg/dl 3– 7 mg/dl 0,5 mg/dl 142 mmol/l 4,2 mmol/l 1,3 mmol/l 0,8 mmol/l 108,0 mmol/l 24 mmol/l 2 mmol/l 0,5 mmol/l
4 - Protein huyết tương là nguồn dự trữ acid amin cung cấp cho các tế bào. Khi cơ thể cần, các đại thực bào trong gan, ruột, lách, phổi và các mô bạch huyết có thể thực bào các protein huyết tương, phân giải chúng thành các acid amin rồi giải phóng vào máu để các tế bào khác có thể sử dụng chúng để tổng hợp các protein mới. - Protein huyết tương đóng vai trò như những chất mang, nhiều phân tử nhỏ phải gắn với các protein mang để được vận chuyển từ cơ quan hấp thu (ruột) hoặc cơ quan dự trữ (gan) đến các mô khác. Ví dụ: Sắt gắn với protein mang transferrin để được vận chuyển trong máu. Các ion, sắc tố, hormon, thuốc cũng được vận chuyển dưới dạng gắn với các protein mang. - Protein huyết tương tác dụng như những chất đệm, góp phần duy trì sự hằng định của pH máu trong khoảng từ 7,35 đến 7,45. Protein có khả năng gắn với ion hydro hoặc ion hydroxyl (OH - ) tuỳ theo pH máu. Nhìn chung, protein huyết tương tác dụng như một base yếu và gắn với những ion hydro thừa do đó giữ cho máu hơi kiềm. - Một số protein huyết tương là những tiền chất không hoạt động của các yếu tố đông máu. Khi được hoạt hoá chúng sẽ tương tác với nhau và cùng với các yếu tố đông máu của mô và của tiểu cầu làm cho máu đông lại. Khi mạch máu bị tổn thương, đông máu là một trong những cơ chế bảo vệ giúp cơ thể chống lại sự mất máu và chống sự xâm nhập của vi khuẩn và virus. - Các protein huyết tương tạo ra áp suất thẩm thấu do keo, có vai trò quyết định sự phân bố nước giữa máu và dịch kẽ. Bình thường, áp suất thẩm thấu toàn phần của huyết tương là 7,3 atm hoặc bằng 5550 mmHg. Khoảng 99,5% áp suất thẩm thấu toàn phần là do các phân tử nhỏ như các chất điện giải, urê, glucose… Các phân tử này dễ dàng đi qua thành mao mạch cùng với nước. Như vậy, áp suất thẩm thấu do các chất hoà tan ở huyết tương và dịch kẽ là như nhau. Áp suất thẩm thấu do keo (cũng gọi là áp suất keo) chỉ chiếm 0,5% tức là bằng 28 mmHg, nhưng do các protein không qua được thành mao mạch, chúng ở lại trong huyết tương và duy trì một bậc thang nồng độ protein từ máu ra dịch kẽ để tác động lên sự vận chuyển của nước và các chất hoà tan giữa huyết tương và dịch kẽ. Các dung dịch có cùng áp suất thẩm thấu với huyết tương được gọi là dịch đẳng trương. Dung dịch có áp suất thẩm thấu cao hơn áp suất của huyết tương là dung dịch ưu trương. Dung dịch có áp suất thẩm thấu thấp hơn của huyết tương là dung dịch nhược trương. Cả ba loại dịch huyết tương, dịch kẽ và dịch nội bào đều cân bằng thẩm thấu. Sự hằng định nội môi của ba dịch phụ thuộc vào sự điều hoà áp suất thẩm thấu của huyết tương. Bất cứ sự thay đổi nào khỏi giá trị bình thường của áp suất thẩm thấu dịch ngoại bào đều làm thể tích tế bào thay đổi (tế bào trương to hoặc teo lại) làm cho tế bào không hoạt động được hoặc bị chết. Ngoài những chức năng chung, một số protein huyết tương còn có những tính chất và chức năng đặc biệt. 2.2.1. Albumin Albumin chiếm tỷ lệ 60% protein toàn phần. Albumin là một trong những phân tử nhỏ nhất trong huyết tương (trọng lượng phân tử 69.000). Do có số lượng rất lớn và kích thước nhỏ, albumin tạo ra khoảng 80% áp suất keo của huyết tương. Trong một số bệnh như suy dinh dưỡng nặng, bệnh gan, bệnh thận, nồng độ albumin huyết tương giảm, áp suất keo giảm làm cho dịch từ máu đi vào khoảng kẽ và gây phù.