Nội dung text 1726127226-19_Luận cứ bảo vệ tranh chấp HĐ vay tài sản 3.docx
LUẬN CỨ BẢO VỆ (V/v: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”) Kính thưa Quí Tòa, Tôi là Luật sư N.Đ.L, thuộc Đoàn Luật sư TP.H, theo yêu cầu của bị đơn dân sự L và được sự đồng ý của Quí Tòa qua giấy: “Chấp nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” số 07/CV-TA ngày 11/7/2007, hôm nay, trước phiên Tòa sơ thẩm này, tôi xin được thực hiện việc bảo vệ quyền lợi của thân chủ tôi (Bà L) với các quan điểm và luận cứ sau: Thứ nhất: Việc cho vay nợ và trả nợ giữa nguyên đơn (ông H) và bị đơn (bà L) dựa trên cơ sở sự quen biết thân tình đặc biệt như người thân trong nhà, nên giấy nhận nợ chỉ viết tay (mà do chính nguyên đơn, tức chủ nợ viết, bị đơn chỉ cứ việc ký xác nhận) hay có trường hợp chỉ trao đổi miệng (như trường hợp bị đơn L nói có trả nợ gốc cho nguyên đơn 2 lần: một lần 150.000.000 đồng vào ngày 18/6/2004 và một lần 50.000.000 đồng vào ngày 20/11/2006, cộng dồn là 200 triệu đồng, nhưng nguyên đơn không nhớ). Thứ hai: Việc cho mượn nợ, thu nợ, lãi, đối chiếu nợ hoàn toàn do nguyên đơn đạo diễn, tính toán, trong khi bị đơn có vẻ thụ động, không có bất cứ đề nghị nào về mặt thủ tục pháp lý (như viết hợp đồng có công chứng hoặc ít ra hợp đồng tay vay nợ có nhân chứng v.v…) xuất phát từ lý do là nguyên đơn ít học và dốt luật. Thứ ba: Vì khoản cách biệt trong việc xác nhận nợ giữa 2 bên là rất lớn (Bên nguyên đơn cho rằng số nợ còn lại lên đến 1.176.134.000 đồng chưa tính lãi, trong khi bên bị đơn xác nhận số nợ chỉ còn vỏn vẹn khoảng 400 triệu đồng kể cả lãi tính đến thời điểm ngày 28/6/2004, tức là ngày mà bị đơn trả nợ cho nguyên đơn bằng việc bán căn nhà trị giá 750 triệu đồng, nghĩa là tiền lãi chỉ thiếu từ ngày này về sau (còn tất cả tiền lãi trước ngày 28/6/2004 thì đã được thanh toán). Cho nên việc hòa giải giữa hai bên là không khả thi và thực tế tại Tòa án qua mấy lần cũng không hòa giải được.
Từ tình hình thực tế, qua 3 nhận định trên, với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn L, tôi kính đề xuất Hội Đồng xét xử sơ thẩm mấy điểm sau: I. Chấp nhận cơ sở thực tế và tính pháp lý của bản photo, tổng hợp đối chiếu nợ do bị đơn đã ký xác nhận với nguyên đơn , vì tất cả mặt chữ và số liệu nợ và lãi đều do nguyên đơn chấp bút và đây là cơ sở khách quan nhất so với các chứng từ được xuất trình (mặc dù nguyên đơn cho rằng đó là bản nháp và đã làm mất hoặc đốt rồi, nhưng bị đơn đã lục tìm được bản photo). Và từ bản sao tổng hợp đối chiếu nợ giữa 2 bên này đã làm rõ thêm 2 vấn đề là: 1) Bị đơn đã 4 lần trả nợ gốc (lần I: 50 triệu, lần II: 20 triệu, lần III: 100 triệu (số V trong bản đối chiếu nợ) và lần IV: cấn trừ căn nhà bán cho phía người thân của nguyên đơn là 750 triệu) tổng cộng là: 920 triệu (chín trăm hai chục triệu). Vì vậy, trong tính toán nợ tồn đọng của bị đơn, đề nghị Quí Tòa trừ khoản này ra. 2) Có bằng chứng là nguyên đơn đã đôn lãi vào vốn tất cả là: 103.660.000 đồng (một trăm lẻ ba triệu sáu trăm sáu chục ngàn đồng), là không phù hợp với luật pháp, vì như vậy là có tình trạng tính lãi chồng lên lãi. Phần này cũng đề nghị Quí Tòa trừ bớt vào nợ tồn tại (đó là chưa kể số lãi thặng dư không hợp lý phát sinh từ các khoản lãi cộng dồn này mà bên bị đơn đã phải chịu thanh toán). II. Công nhận tổng số tiền lãi (với lãi suất thỏa thuận cao chưa phù hợp với qui định luật pháp) cho đến trước thời điểm 28/6/2004 (tức là thời điểm bị đơn xác nhận kể từ đó về sau chưa trả lãi tiếp tục, theo biên bản kết thúc ghi nhận trong hồ sơ tại Tòa) với tổng số là : 273.800.000 đồng (hai trăm bảy mươi ba triệu tám trăm ngàn đồng) mà bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn và được trả làm 13 đợt từ đợt đầu vào tháng 8/2003 đến đợt cuối vào tháng 4/2004 theo bút tích của nguyên đơn trên bản đối chiếu. Nếu áp dụng chế tài theo qui định của Bộ Luật Dân sự, kể cả Bộ Luật Dân sự năm 1995 có hiệu lực từ ngày 01/7/1996 và Bộ luật Dân sự 2005 hiện nay (nay là Bộ luật Dân sự năm 2015), thì phần đã trả lãi vay cao vượt qui định, theo tôi, cũng nên trừ bớt vào phần vốn còn nợ của bị đơn. III. Không công nhận số tiền nợ 300 triệu (ba trăm triệu đồng chẳn) mà nguyên đơn giao cho bị đơn ngày 16/6/2004, vì đây là tiền hùn vốn kinh doanh bất động sản theo nguyên tắc “lời ăn lỗ chịu” mà thực tế là bị đơn đã bị lỗ nặng, nên nguyên đơn cũng phải cùng chịu hậu quả thua lỗ qua việc góp vốn làm ăn này.
IV. Xác nhận quan hệ dân sự bị vô hiệu từ giấy nhận nợ ngày 24/01/2005 với số nợ 1.874.000.000 đ (một tỉ tám trăm bảy mươi bốn triệu đồng) do có sự nhầm lẫn của bên bị đơn và do vi phạm các hình thức văn bản (dù viết tay) giữa 2 bên như: ghi “người làm chứng” nhưng không có ai làm chứng ký tên cả; ghi “người viết giấy nhận nợ ký tên” nhưng bị đơn không hề chấp bút, mà chính nguyên đơn là chủ nợ tự viết; ghi “giấy làm 2 bản mỗi người một bản giá trị như nhau” nhưng thực tế chỉ có nguyên đơn giữ mà bị đơn (tức con nợ) không giữ bản nào. Việc tuyên bố quan hệ dân sự vô hiệu ở đây dựa trên cơ sở các điều khoản của Luật Dân sự như sau: - Điều 139 Bộ Luật Dân sự nước CHXHCN VN ngày 09/11/1995 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ qui định về hình thức” (nay là Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015) và Điều 141 Bộ Luật trên về “giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn” (nay là Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015) ở khoản 2 qui định: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn, thì bên có lỗi trong việc để xảy ra nhầm lẫn phải bồi thường thiệt hại”. Ở đây, bên có lỗi chính là nguyên đơn, vì chính nguyên đơn chấp bút và đưa ra các qui định hình thức gây nhầm lẫn cho bị đơn, vì bị đơn là người ít học, dốt luật pháp. Vì chính Điều 400 Bộ Luật Dân sự năm 1995, có hiệu lực từ ngày 01/7/1996 (nay được quy định tại Tiểu mục 7 - Chương XI Quy định chung - Phần thứ hai Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản Bộ luật Dân sự năm 2015) này cũng qui định: “Khi các bên giao kết hợp đồng bằng hình thức nhất định, thì hợp đồng được coi là đã giao kết khi đã tuân theo hình thức đó”, nhưng ở đây quan hệ dân sự được thực hiện sai hình thức đã thỏa thuận. Và ngay cả khi vận dụng hồi tố Bộ Luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 ở Điều 131 về “giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn” (nay là Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015) và Điều 134 về “giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ qui định về hình thức” (nay là Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015) cũng có nội dung qui định về vô hiệu tương tự như trên về giao dịch dân sự. Hơn nữa, giấy nhận nợ ngày 24/01/2005 về khoản nợ 1.874.000.000 đồng còn vi phạm yếu tố trung thực, vì theo nhân chứng tình cờ L (đã có bản khai tại hồ sơ vụ kiện), thì bị đơn L ký xác nhận trước rồi, nguyên đơn mới ghi nội dung phần sau, trong đó có việc ghi thêm số nợ 1.874.000.000 đồng. Và rõ ràng một khi quan hệ dân sự bị vô hiệu, thì quan hệ đó mất giá trị và không tồn tại, hoàn toàn không thể điều chỉnh nghĩa vụ bên bị đơn (tức con nợ) vì bị đơn là người ngay
tình, do nhầm lẫn. Và bị đơn cũng phủ nhận hoàn toàn là không hề có nhận khoảng nợ này. Tóm lại , trên cơ sở các luận cứ viện dẫn trên, với tư cách luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn, chúng tôi kiến nghị Hội Đồng xét xử chấp nhận yêu cầu phía bị đơn để tuyên xác nhận số nợ còn tồn đọng mà bị đơn có nghĩa vụ phải trả là 400.000.000 đ (bốn trăm triệu đồng chẳn) và số lãi phát sinh kể từ thời điểm ngày 28/6/2004 về sau như bị đơn đã thành thật khai báo trước Tòa hôm nay. Và căn cứ theo Điều 476 khoản 1 (về lãi suất của hợp đồng vay tài sản) của Bộ Luật Dân sự năm 2005 (mục 4 chương XVIII) (nay là Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015) có ghi rõ: “ Lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Trong quá trình vay và trả nợ, lãi của bị đơn L có thể xác định thuộc loại hình vay vốn lưu động trung hạn, và căn cứ theo các tài liệu thông báo của Ngân hàng, thì trong các khoản thời gian đó lãi suất tín dụng ngân hàng biến động từ 0,8%/tháng cho đến cao nhất là 1,1%, tức là bị đơn chỉ phải thanh toán lãi tối đa 1,65%/tháng (tức 1,1% x 150%). Nhưng trong quá trình thanh toán lãi , bị đơn L đã chịu thiệt hại vì phải thanh toán lãi từ thấp nhất là 2%/tháng đến mức cao là 3%/tháng và thậm chí còn phải trả lãi chồng lên lãi (do nguyên đơn cộng nợ lãi vào vốn để tính lãi tiếp). Vì vậy, chúng tôi cũng kiến nghị Hội Đồng xét xử sơ thẩm cho áp dụng theo đúng lãi suất cho vay hiện nay của Ngân hàng (là 1,1% đến cao nhất là 1,2%/tháng) đối với khoản nợ 400 triệu đồng còn lại kể từ thời điểm 28/6/2004 đến ngày khởi kiện của nguyên đơn. Kính mong được Quí Tòa nghiên cứu chấp nhận các luận cứ và các kiến nghị cụ thể hợp tình , hợp lý và thỏa đáng nói trên, để cho thân chủ tôi không bị quá thiệt hại. Trân trọng kính kiến nghị và kính cảm ơn Hội Đồng xét xử.