Nội dung text 1726469941-25_Luận cứ bảo vệ tranh chấp bức tường ranh giới liền kề.docx
2. Tiếp đến, từ tháng 9/1993 đến tháng 4/1994, với thời gian dài trên 7 tháng, nguyên đơn (ông bà C) đã đập bỏ toàn bộ dãy tường phía sau (cùng chung một dãy với phần tường tranh chấp), chỉ chừa phần tường phía trước để dự phòng theo qui hoạch giải tỏa mở rộng đường đã có thông báo trước của Nhà nước, để xây mới, xây tường lầu cao, bị đơn (ông bà H) cũng không hề có bất cứ sự phản đối cụ thể, dứt khoát nào. 3. Cuối cùng, vào năm 1998, khi nguyên đơn tiến hành treo bảng hiệu doanh nghiệp của mình ngay trên đầu phần tường tranh chấp này thì bị đơn cũng không thể hiện bất cứ thái độ phản đối nào hoặc bất cứ yêu cầu nào buộc nguyên đơn phải làm cam kết khi sử dụng phần tường này đã liên tục qua thời gian dài (trên 20 năm từ thời chủ cũ sang nhượng là bà N) với ý thức của người chủ sở hữu bức tường. 4. Trong khi đó, mới đây, vào năm 2006, bị đơn lại tiến hành xây một bức tường mới ốp sát phần tường đang tranh chấp để đở cái ô văng của nhà bị đơn. Như vậy, từ lời khai và cam kết của người bán nhà cũ (bà N) đến các thái độ ứng xử và hành vi của bị đơn thụ động hoàn toàn trước quá trình thực hiện quyền chủ sở hữu liên tục 20 năm qua của nguyên đơn đối với phần tường tranh chấp này, cho thấy tính thực tế và tính hệ thống logique chặt chẽ quyền sở hữu phần tường (kích thước 0,1m x 12m30) hoàn toàn thuộc về nguyên đơn không thể chối cãi được và cũng không có bất cứ một chứng cứ, một nhân chứng nào phản bác được sự thật khách quan về quyền chủ sở hữu của nguyên đơn được. Việc bị đơn nại lý lẽ là nguyên đơn sử dụng bức tường từ suốt 1987 đến khi có tranh chấp hiện nay là sử dụng tạm thời, mà không có bất cứ một chứng cứ, văn bản thỏa thuận nào là hoàn toàn không có cơ sở thực tiễn, không logique và hoàn toàn ngụy biện. Vì trong thực tế cuộc sống, không một chủ sở hữu nào lại thụ động để người khác xâm phạm, chiếm dụng quyền sở hữu (nếu thực sự của mình) suốt thời gian dài đó mà không bất cứ hành động hoặc điều kiện bắt buộc nào. Mặt khác, việc bị đơn nại ra trong kháng cáo, là “tờ khai trước bạ” nhà -- T.T.L (của bị đơn) ngày 11/8/1989 không có giá trị pháp lý đối chứng, vì cơ quan thuế không phải là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà đất. Theo tôi, tuy cơ quan thuế không có chức năng trực tiếp quản lý nhà đất, nhưng từ tờ khai của chủ sở hữu nhà, quyền sử dụng đất có sự kiểm tra của cơ quan thuế thực địa tại chổ để đóng thuế, lệ phí trước bạ trong thực tế và theo qui định pháp luật cũng là một trong những điều kiện rất quan trọng không thể thiếu để công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở của chủ nhà. Không có một chủ sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở nào lại dại dột để cơ quan thuế thu hẹp diện tích sở hữu của mình mà không phản ứng, vì trong thực tế nếu vì động cơ trốn thuế sử dụng đất,
giảm bớt lệ phí trước bạ cũng sẽ hoàn toàn bất lợi và thiệt hại so với trị giá phần sử dụng đất bị giảm bớt, bị mất đi. Rõ ràng, từ diện tích 3,2m x 10m qua kiểm tra của cơ quan thuế đến diện tích tự khai của bị đơn trong “Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp lệ phí trước bạ” là 3,2m x 20m và diện tích tự khai phình ra cả 2 chiều để hợp thức hóa vừa qua là 3,60m x 29,50m (chưa kể vách tường xây thêm ốp với số nhà --T.T.L) là không hợp lý, bất thường và thiếu thực tế có lẽ do chiếm dụng đất thêm, mặc dù cơ quan quản lý nhà địa phương đã có sơ sót, thiếu kiểm tra khi cấp Giấy chứng nhận QSHNƠ và QSDĐƠ. Nhưng qua sự kiện này, một lần nữa cũng chứng minh Giấy chứng nhận QSHNƠ và QSDĐƠ nhà -- T.T.L của bị đơn là có phần chưa phù hợp, thiếu chính xác do lỗi của cơ quan quản lý nhà đất địa phương, đồng thời cũng chứng minh bị đơn (ông bà H) hoàn toàn không có cơ sở thực tế về quyền sở hữu đối với phần tường tranh chấp hiện nay. Còn về phần bị đơn có nại ra là nguyên đơn (ông bà C) có Xác nhận thỏa thuận phần tường tranh chấp là tường riêng của bị đơn trong đợt kê khai nhà đất toàn thành phố năm 1999 là không đúng sự thật và đã bị nguyên đơn (ông C) bác bỏ hoàn toàn tại phiên Tòa sơ thẩm, vì xác định không phải tự dạng chữ viết của nguyên đơn. Tóm lại, với các chứng cứ đã nêu cùng với thực tế khách quan thực hiện quyền sở hữu liên tục của thân chủ chúng tôi (là nguyên đơn ông bà C) xuyên suốt từ 1987 đến nay, cùng với các luận cứ đã trình bày, căn cứ theo các điều 164 (nay là Điều 158 Bộ Luật Dân sự năm 2015), 165 (nay là Điều 160 Bộ Luật Dân sự năm 2015), 169 Bộ Luật Dân sự năm 2005 (nay là Điều 163 Bộ Luật Dân sự năm 2015), với tư cách luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, chúng tôi kính kiến nghị Hội Đồng xét xử bác đơn kháng cáo của bị đơn và tuyên y án sơ thẩm Trân trọng kính kiến nghị và kính cảm ơn Quí Tòa.