Nội dung text 1722625200-1722138296-10. Luận cứ bào chữa tội vu khống.docx
LUẬN CỨ BÀO CHỮA CHO P.V.S BỊ VKSND HUYỆN H.T (TỈNH T.N) TRUY TỐ VỀ TỘI “VU KHỐNG” Tôi, Luật sư L.T.L, được TAND huyện H.T chấp thuận bào chữa cho anh P.V.S, người bị VKSND huyện H.T truy tố về hành vi “vu khống” theo Điều 122 BLHS (nay là Điều 156 BLHS 2015) Theo Cáo trạng và quan điểm VKS, anh P.V.S đã tố cáo một số cá nhân và tổ chức đã “thiếu tinh thần trách nhiệm, lạm dụng chức vụ quyền hạn bao che cho người thân trong gia đình là ông P.V.R lấn chiếm đất của vợ chồng ông N.T.L, bà P.T.V lấn chiếm đất trường Mẫu giáo L.T.B”. Cáo trạng đã căn cứ vào Báo cáo kết luận số 01/BC-XKT ngày 28/11/2007 của Thanh Tra huyện H.T để cho rằng không có hành vi lấn đất xảy ra và việc tố cáo của anh P.V.S là sai sự thật. Thưa HĐXX! 1- Trước hết, về mặt hình thức thì Báo cáo kết luận của Thanh Tra huyện H.T không phải là cơ sở pháp lý để khẳng định sự thật của vụ án. Đây chỉ là tài liệu có tính chất tham khảo. Vì vậy, tôi đề nghị VKS hãy cùng tôi làm sáng tỏ kết luận của Thanh tra có đúng sự thật khách quan hay không? VKS cần phải đưa ra tài liệu chứng cứ chứng minh rằng: Kết luận của Thanh tra huyện H.T là đúng với hiện thực khách quan. Có như thế mới có thể khẳng định anh P.V.S nói sai sự thật, bịa đặt sự thật nhằm vu khống. Ngay trong hồ sơ vụ án thì các tài liệu chứng cứ đã rõ ràng rằng các nội dung tố cáo của anh P.V.S là hoàn toàn đúng sự thật. Hiện thực của hai khu đất mà anh S tố cáo vẫn còn nguyên trạng, việc xác minh sự thật là hết sức dễ dàng. Trong trường hợp VKS xét thấy cần thiết thì xin phép HĐXX hoãn phiên tòa để cùng tôi đến hiện trường khu đất, thì dễ dàng thấy ngay rằng lời tố cáo của anh S đều chính xác đến từng mét vuông. 2- Tôi sẽ chứng minh cho HĐXX và VKS thấy thực tế trường Mẫu giáo L.T.B đã bị mất 01 phần diện tích đất: Tôi nhấn mạnh rằng, từ năm 1979 đất của bà H đã cho UBND xã L.T.B mượn, bà H cùng gia đình chuyển sang sinh sống ở mảnh đất khác (ô 7) nên quyền quản lý khu đất cho mượn này là UBND xã L.T.B. Thanh tra huyện cũng như Cơ quan điều tra huyện H.T đã
cố tình điều tra chệch sang một hướng khác là chứng minh bà V không tranh chấp ranh đất với bà H là hết sức vô lý, vì bà H có sử dụng, quản lý đất đó đâu mà tranh chấp. Mặt khác, anh S tố cáo là tố cáo việc chiếm giữ đất công thuộc sự quản lý của UBND Huyện H.T, hoàn toàn không đề cập đến việc có tranh chấp hay không? Cơ quan điều tra, VKS đã bỏ qua những chứng cứ chứng minh rằng đất của bà H trong thời gian cho UBND xã mượn đã bị lấn chiếm với diện tích hơn 200m 2 , bằng cách không quan tâm gì đến các lời khai bà N, bà N1, bà H, không ghi lời khai bà T (là người bán đất năm 1974 cho bà H), bỏ qua tờ bản đồ được phê duyệt năm 1991 có diện tích lớn hơn diện tích hiện tại để kết luận rằng diện tích đất của trường Mẫu giáo còn nguyên vẹn là kết luận không khách quan, không chính xác. Cụ thể, Cáo trạng đã bỏ qua những chứng cứ chứng minh tố cáo của anh P.V.S là đúng như sau: - Giấy tay bán đất năm 1971 của vợ chồng P.V.L, N.T.N cho bà H miếng đất tọa lạc tại Hương Đạo T.T, diện tích ban đầu cũng ghi là 25x30m nhưng sau đó sửa lại thành 17x30m vì riêng diện tích 17x30m này có nguồn gốc là ông L, bà N đã được Hội T cho, khi bán phải làm giấy xin phép Hội T, nên phần đất riêng của ông L, bà N không được ghi trong giấy này. Nhưng không phải vì vậy mà bác bỏ một thực tế là bà H.T.K.H đã mua từ vợ chồng ông L, bà N diện tích đất (25x30)m = 750m 2 (Lời khai của N.T.N, N.T.N1 – hàng xóm, H.T.K.H, BL 135, 136, 137, 142). - Năm 1974, bà H mua thêm diện tích (8x30)m = 240m 2 của N.T.T cũng tọa lạc tại Hương đạo T.T (BL 139). Như vậy, tổng diện tích đất bà H là chủ sở hữu đến thời điểm năm 1974 là 990m 2 . Nếu trừ lộ giới vào 3m thì còn lại (25x27) + (8x27) = 891m 2 . Phù hợp với Tờ bản đồ lưới số 06, đo đạc theo Chỉ thị 299, phê duyệt ngày 6/4/1991 thể hiện: Thửa số 1478 diện tích 845m 2 là đất bà H khi chưa chính thức hiến làm trường Mẫu giáo (BL 158). - Năm 1979, bà H cho UBND xã L.T.B mượn diện tích đất này làm trường Mẫu giáo, vợ chồng bà chuyển qua ở ấp L.Đ (Báo cáo kết luận Thanh tra huyện H.T, BL 65) nên trong thực tế từ năm 1979 bà H đã không hề quản lý, sử dụng diện tích này mà do UBND xã L.T.B quản lý cho đến nay. - Tờ bản đồ lưới số 16 (hiện hành, sau năm 2003), thể hiện thửa số 148 (tương ứng thửa số 1478) diện tích giảm xuống còn 612,6m 2 (BL 157). Do đó, căn cứ vào bản đồ thì sau 2 lần đo vẽ lại bà H bị mất 232,4m 2 .
Tôi xin hỏi VKS: 232,4m 2 đất này nếu không bị lấn chiếm thì diện tích này bị mất đi đâu? - Báo cáo kết luận số 01/BC-XKT ngày 28/11/2007 của Thanh Tra huyện H.T thừa nhận diện tích đất của bà H là 612,9m 2 được chia 2 phần: Phần trường Mẫu giáo là 396,9m 2 , phần chia cho ông M (con bà H) là 216m 2 (Đã trừ lộ giới) (BL 65). - Căn cứ vào giấy tờ viết tay mua bán năm 1971, 1974 và Báo cáo kết luận số 01/BC- XKT thì diện tích đất bà H bị mất là 891m 2 - 612,9m 2 = 278,1m 2 (Đây là diện tích sau khi đã trừ lộ giới). - Diện tích đất của bà H có vị trí 2 mặt giáp ranh lộ giới và giáp ranh với đất của bà V (BL 152). Đất không thể tự nhiên teo lại, cũng không thể tự nhiên nở lớn ra (trừ những trường hợp bị sụp lở hay phù sa bồi đắp). Hai diện tích đất bà H và bà V liền kề nhau mà đất bà H tự dưng bị giảm mất diện tích, đương nhiên ai cũng biết là đất phía bà V sẽ có thêm diện tích vì lẽ đơn giản là ranh giới đất đã bị thay đổi. Do đó, anh P.V.S tố cáo bà V lấn chiếm đất Nhà nước là đúng sự thật. Thưa HĐXX! Tại phiên tòa hôm nay nếu anh P.V.S vẫn bị kết tội vu khống, thì chính tôi – nhân danh là một công dân Việt Nam, sẽ tiếp tục khiếu kiện và tố cáo xem diện tích này đã bị mất đi đâu, ai đang chiếm giữ nó??? Đất đây là đất của cá nhân hiến cho Nhà nước với mong muốn Nhà nước dùng để xây trường cho trẻ em của Huyện H.T. Tôi rất đau lòng vì có những kẻ không những không hiến đất mà còn cố tình chiếm đoạt tài sản công làm của riêng. Ai đã bao che cho những người này chiếm đoạt phần đất công ấy? Tôi tự hứa với anh P.V.S rằng chính tôi sẽ nhân danh là một công dân Việt nam sẽ đấu tranh đến cùng để làm sáng tỏ phần diện tích đất này mất đi đâu? Ai bao che cho người khác chiếm đoạt đất này. Tôi sẽ làm đến cùng để xem các cơ quan tiến hành tố tụng Huyện H.T có thể bắt giam tôi được hay không! 3- Cơ quan tiến hành tố tụng không điều tra việc anh P.V.S tố cáo ông P.V.R cất nhà trái phép lấn đất ông L và bà X nhưng lại cho rằng anh P.V.S vu khống. Đây là một kết luận không có cơ sở nhưng mang tính chụp mũ đối với một công dân có ý thức đấu tranh cho lẽ công bằng: Trang đầu Cáo trạng số 84/QĐ/KSĐT ngày 15/7/2008 ghi rõ ông S “Tố cáo ông P.V.R cất nhà trái lấn đất của ông L và bà X” (BL 648). Chính cái “nhà trái phép” này khi cất lên lấn chiếm đất người khác nhưng Cơ quan điều tra không hề thu thập hồ sơ cấp phép xây dựng nhà của ông R.
(Bản thống kê tài liệu không có tài liệu điều tra về vụ này. Về lời khai nhân chứng thì anh P.V.S nói rằng khi cán bộ điều tra T.Q.B đến nhà các nhân chứng (dân trong xã) xác minh đã cho phép N.Đ.T đi theo ngồi kế bên, mà T là cán bộ địa chính xã đồng thời là người bị anh S tố cáo, như vậy lời khai các nhân chứng này không khách quan). Duy nhất có 01 Biên bản đo đạc ngày 19/10/2007 của Thanh tra huyện kết hợp cán bộ xã L.T.B lập để đo đất của 07 chủ sử dụng là: Trường Mẫu giáo, bà P.T.V, bà T.T.T, ông C.L.K, ông P.V.R, bà X + ông L (không ghi rõ họ tên), bà V.T.R thì chỉ có cán bộ lập biên bản và bà P.T.V ký tên, riêng hộ bà V.T.R ghi thêm vào biên bản: “Tôi P.V.S có chứng kiến đo đất của gia đình tôi như ghi trên biên bản, còn các phần đất khác tôi không có chứng kiến”. Đo đất nhưng người trực tiếp sử dụng đất lại không được chứng kiến, không được ký tên, cho nên kết quả đo đạc này không khách quan. Mặt khác, anh P.V.S tố cáo việc ông R xây nhà trái phép lấn đất thì nội dung biên bản không đề cập gì đến vấn đề xây nhà. Vấn đề anh P.V.S tố cáo đã không được cơ quan điều tra làm rõ mà Cơ quan điều tra, VKS đã kết luận anh P.V.S tố cáo sai và cho rằng anh S vu khống là sự buộc tội hết sức vô lý, không có cơ sở. Nếu VKS cho rằng anh P.V.S vu khống thì VKS phải chứng minh được rằng nhà của ông P.V.R đã xây dựng có đầy đủ giấy phép theo quy định. Nếu không có thì hiển nhiên ông P.V.R đã xây dựng trái phép và lời tố cáo của anh P.V.S là hoàn toàn chính xác. 4- Các đối tượng trộm cắp ở trong nhà của ông P trong thời gian ông P là chủ nhà: Theo Cáo trạng, căn hộ Đ206 ấp L.Đ, xã L.T.B do vợ chồng P.V.P là chủ sở hữu, từ năm 2004 giao lại cho em ông P là T.V.Đ trông coi, đến ngày 13/8/2008 mới chính thức sang tên cho T.V.Đ (hộ khẩu số 4716, cấp ngày 13/8/2008). Như vậy, dù không sinh sống ở đó nhưng ông P vẫn là chủ nhà, là chủ hộ cho đến ngày 13/8/2008, thì quyền quyết định cho ai được ở trong nhà này vẫn là quyền của ông P. Cáo trạng cho rằng T.V.Đ (em ruột ông P) là “đối tượng trộm cắp đã bị Công an huyện H.T khởi tố bị can số 159 ngày 27/11/2007 và ra Lệnh bắt tạm giam số 20 ngày 27/11/2007” nhưng thực tế vào thời điểm anh P.V.S tố cáo thì T.V.Đ vẫn ung dung ngoài vòng pháp luật, chưa hề bị bắt giam ngày nào, thậm chí còn được Công an huyện cấp sổ hộ khẩu mới cho đứng tên chủ hộ (hộ khẩu số 4716, cấp ngày 13/8/2008). Nếu không có ai bao che, dung túng thì liệu T.V.Đ có được sự ưu ái như vậy không? Vì vậy, anh P.V.S nói rằng ông P bao che, chứa chấp đối tượng trộm cắp của công trong nhà Đ206 ấp L.Đ là có căn cứ.