Nội dung text 51 - Nguyễn Đình Thọ - Thị trường Các-bon: Cơ hội và tiềm năng.pdf
1 THỊ TRƯỜNG CÁC-BON: CƠ HỘI VÀ TIỀM NĂNG PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường Thị trường các-bon là công cụ định giá khí nhà kính nhằm khuyến khích doanh nghiệp giảm phát thải thông qua giao dịch hạn ngạch và tín chỉ các-bon. Việt Nam đã thiết lập nền tảng pháp lý với Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định 06/2022/NĐ-CP, Nghị định 119/2025/NĐ-CP, Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg, Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg và Quyết định 232/QĐ-TTg, hướng đến vận hành chính thức từ cuối năm 2025. Cam kết Net Zero năm 2050 và các chương trình như REDD+, CDM hay Đề án 1 triệu ha lúa phát thải thấp tạo nền tảng thúc đẩy thị trường. Cơ chế phân bổ hạn ngạch miễn phí và bù trừ bằng tín chỉ giúp giảm chi phí tuân thủ nhưng làm hạn chế nguồn thu công, đòi hỏi lộ trình điều chỉnh hợp lý. Việt Nam có tiềm năng lớn từ các lĩnh vực như rừng, nông nghiệp, năng lượng tái tạo và giao thông điện hóa để tạo tín chỉ các-bon. Thị trường giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tiếp cận tài chính xanh, tăng năng lực cạnh tranh. Các chủ thể như nhà đầu tư, tổ chức tài chính, cơ quan quản lý giữ vai trò trung tâm trong xây dựng và vận hành hệ sinh thái thị trường. Hệ thống sản phẩm có thể mở rộng gồm trái phiếu xanh, tín chỉ xe điện, quỹ tín chỉ, và bảo hiểm rủi ro phát thải. Nếu được xây dựng minh bạch, đồng bộ và tích hợp quốc tế, thị trường các-bon Việt Nam giúp góp phần giảm phát thải hiệu quả và trở thành trụ cột tài chính xanh cho phát triển bền vững. Từ khóa: Thị trường các-bon, tín chỉ các-bon, ITMOs, CDM, JCMs Carbon market: Opportunities and potential The carbon market is a greenhouse gas pricing tool designed to encourage businesses to reduce emissions through the trading of allowances and carbon credits. Vietnam has established a legal foundation through the Law on Environmental Protection, Decree 06/2022/NĐ-CP, Decree 119/2025/NĐ-CP, Decision No. 01/2022/QĐ-TTg, Decision No. 13/2024/QĐ-TTg, and Decision 232/QĐ-TTg, aiming for official operation by the end of 2025. The Net Zero commitment by 2050, along with programs such as REDD+, CDM, and the One Million Hectares of Low-Emission Rice initiative, provides a strong basis for market development. The mechanism of free allocation of allowances and carbon credit offsetting helps reduce compliance costs but limits public revenue, necessitating a well-planned adjustment roadmap. Vietnam has great potential to generate carbon credits in sectors such as forestry, agriculture, renewable energy, and electric transportation. The market facilitates technological innovation, access to green finance, and enhanced competitiveness for businesses. Key players, such as investors, financial institutions, and regulatory agencies, play a central role in developing and operating the market ecosystem. The range of market products can be expanded to include green bonds, electric vehicle credits, credit funds, and emission risk insurance. If built in a transparent, coherent, and internationally integrated manner, Vietnam's carbon market can not only contribute effectively to emission reductions but also become a pillar of green finance for sustainable development. Keywords: Carbon market, carbon credits, ITMOs, CDM, JCMs JEL Classifications: G18, Q48, Q52, Q56, Q58
4 kể. Hậu quả là công cụ tài chính được thiết kế để khuyến khích chuyển đổi xanh lại không tạo áp lực tài chính đủ lớn để doanh nghiệp thay đổi hành vi sản xuất. Tín chỉ các-bon được dùng làm công cụ bù trừ nghĩa vụ tài chính trong hệ thống thuế hoặc ETS có khả năng thúc đẩy đầu tư vào các ngành chưa bị điều tiết trực tiếp, giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn trong đáp ứng nghĩa vụ phát thải, đồng thời có thể kích hoạt dòng vốn đầu tư xanh tới những khu vực ít được tài trợ. Tuy nhiên, mặt trái là lượng thuế các-bon thu được sẽ giảm đi đáng kể. Năm 2024, Colombia cho phép sử dụng khoảng 17,6 triệu tín chỉ các-bon để bù trừ nghĩa vụ thuế, tương ứng với khoản hụt thu hơn 100 triệu USD. Nam Phi sử dụng gần 4 triệu tín chỉ trong cùng năm, làm giảm nguồn thu tiềm năng hơn 40 triệu USD. Trong khi doanh nghiệp được hưởng lợi từ chi phí tuân thủ thấp hơn, ngân sách công lại chịu áp lực giảm nguồn lực cho các chương trình khí hậu quốc gia (World Bank, 2024). 3. Cơ hội và tiềm năng phát triển thị trường các-bon ở Việt Nam Cam kết tài chính khí hậu toàn cầu đang bước vào giai đoạn mới với sự chuyển tiếp từ mục tiêu 100 tỷ USD mỗi năm được thiết lập năm 2009 tại COP15 ở Copenhagen, sang mục tiêu huy động ít nhất 300 tỷ USD mỗi năm cho các quốc gia đang phát triển tại COP29 ở Baku. Mức đóng góp kỳ vọng của tất cả các bên được nâng lên tới ít nhất 1.300 tỷ USD mỗi năm trước năm 2035. Ngân sách dành cho trợ giá nhiên liệu hóa thạch tại các nước phát triển chiếm khoảng 3,6% GDP trong năm 2022. Mục tiêu 300 tỷ USD chỉ chiếm 0,46% GDP, cho thấy khả năng đáp ứng hoàn toàn nằm trong tầm tay nếu có sự điều chỉnh ưu tiên chi tiêu công. Lộ trình "Từ Baku đến Belém", từ COP29 đến COP30, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng bộ công cụ tài chính và chính sách để hiện thực hóa mục tiêu 1.300 tỷ USD (World Bank, 2025). Tỷ lệ che phủ rừng của Việt Nam hiện trên 42% cùng khả năng gia tăng trữ lượng thông qua phát triển, bảo vệ và làm giàu rừng góp phần quan trọng trong hấp thụ khí nhà kính. Các chương trình REDD+ như tại khu vực Bắc Trung Bộ đã chứng minh năng lực kỹ thuật và cơ chế thực hiện khả thi, đã trao đổi 10,3 triệu tấn CO2 kết quả giảm phát thải từ rừng khu vực Bắc Trung Bộ, thu về 51,5 triệu đô la Mỹ. Đề án 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang có nhiều triển vọng. Với hơn 300 dự án đã đăng ký theo cơ chế phát triển sạch (CDM), trong đó khoảng 150 dự án được cấp tín chỉ với tổng lượng phát thải cắt giảm hơn 40,2 triệu tấn CO2, Việt Nam đã trở thành một trong 4 nước có dự án CDM nhiều nhất, sau Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ1 ; đứng thứ 9 trên tổng số 80 quốc gia có dự án CDM được cấp tín chỉ các-bon, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng. Các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, năng lượng tái tạo và quản lý chất thải cho thấy tiềm năng tạo tín chỉ các-bon ổn định trong dài hạn. Việt Nam là quốc gia đang phát triển có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Các hoạt động sản xuất và tiêu dùng thải ra lượng khí nhà kính đáng kể trong khi mức độ áp dụng công nghệ giảm phát thải vẫn còn hạn chế. Đây là cơ hội để chuyển đổi mô hình, triển khai các giải pháp công nghệ thấp các-bon, từ đó tạo 1 Sẽ có sàn giao dịch tín chỉ carbon trong nước hoạt động như sàn chứng khoán từ cuối năm 2025, Nhân dân