PDF Google Drive Downloader v1.1


Báo lỗi sự cố

Nội dung text 6. Bản án số 02/2023/LĐ-PT ngày 06/01/2023 của TAND tỉnh Bình Dương V/v tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải, tranh chấp tiền lương

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG - Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Công Lực. Các Thẩm phán: ông Huỳnh Văn Luật; bà Trần Thị Thắm. - Thư ký phiên tòa: bà Nguyễn Thị Hằng - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. - Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: bà Trần Thị Ngọc Tuyền - Kiểm sát viên. Ngày 06 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 20/2022/TLPT-LĐ ngày 05/10/2022 về việc “tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải, tranh chấp tiền lương”. Do Bản án lao động sơ thẩm số 01/2022/LĐ-ST ngày 30/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 35/2022/QĐ-PT ngày 05/12/2022, giữa các đương sự: - Nguyên đơn: bà V, sinh năm 1971; địa chỉ thường trú: X, đường Q, Phường Y, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà V có mặt. - Bị đơn: Công ty Cổ phần Dịch vụ quản lý C; trụ sở: B, khu phố R 2, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Người đại diện hợp pháp: bà H, sinh năm 1987; địa chỉ: B, khu phố R 2, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương (văn bản ủy quyền ngày 17/5/2022). Bà H có mặt. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: ông D và ông Đ là Luật sư Công ty Luật TNHH Y, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ: phòng M, lầu U, tòa nhà S, N, phường T, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh. Các Luật sư có mặt. - Người kháng cáo: bị đơn Công ty Cổ phần Dịch vụ quản lý C. NỘI DUNG VỤ ÁN: * Theo đơn khởi kiện, đơn thay đổi và rút một phần yêu cầu khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà V trình bày: Bản án số: 02/2023/LĐ-PT Ngày 06-01-2023 V/v tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải, tranh chấp tiền lương
2 Bà V vào làm việc tại Công ty Cổ phần Dịch vụ quản lý C (sau đây gọi tắt là Công ty C hoặc Công ty) từ ngày 01/12/2019. Hai bên không thỏa thuận thời gian thử việc. Cùng ngày hai bên ký kết hợp đồng lao động xác định thời hạn 03 năm từ ngày 01/12/2019 đến 01/12/2022; mức lương cơ bản: 80.000.000/tháng và tiền thưởng trợ cấp hàng tháng (10%/tổng lương cơ bản): 8.000.000 đồng. Tiền lương thực lĩnh hàng tháng và tham gia bảo hiểm xã hội: 88.000.000 đồng; công việc phải làm: Giám đốc nhân sự; địa điểm làm việc tại Công ty ở số B, khu phố R 2, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương; thời gian làm việc từ thứ hai đến thứ sáu hàng tuần, tháng làm 22 ngày. Quá trình làm việc, Bà V luôn hoàn thành công việc được giao. Ngày 01/6/2020, Công ty ban hành Quyết định tạm đình chỉ Hợp đồng lao động với Bà V với thời hạn 60 ngày kể từ ngày 02/6/2020 đến ngày 31/7/2020 để Công ty điều tra xác minh sai phạm của Bà V. Công ty có giao Quyết định cho Bà V và không cho bà đến Công ty làm việc bắt đầu từ ngày 02/6/2020. Trong 02 tháng tạm đình chỉ, Công ty có thanh toán cho bà tiền lương tháng 6/2020 là 60.000.000 đồng/88.000.000 đồng và tháng 7 là 44.000.000 đồng/88.000.000 đồng. Lý do mà Công ty đưa ra để tạm đình chỉ công việc của Bà V là không đúng, vì trong quá trình làm việc bà luôn hoàn thành công việc được giao, không có sai phạm. Ngày 03/8/2020, Bà V có đến Công ty và làm việc với người đại diện của Công ty. Khi đó, Công ty có đề xuất cho bà nghỉ việc, chấm dứt hợp đồng lao động và Công ty sẽ thanh toán số tiền lương còn lại của 02 tháng bị tạm đình chỉ làm việc. Nếu bà không đồng ý nghỉ việc, thì Công ty sẽ kỷ luật và sa thải. Bà V không đồng ý vì không có bất kỳ sai phạm nào trong quá trình làm việc. Cuộc họp này chỉ trao đổi bằng lời nói, không được lập thành biên bản. Đồng thời, từ ngày 03/8/2020 Bà V quay trở lại làm việc tại Công ty. Sau đó, Công ty có gửi thư mời cho Bà V để dự cuộc họp xử lý kỷ luật vào ngày 13/8/2020. Ngày 13/8/2020, Công ty đã tổ chức cuộc họp xử lý vi phạm kỷ luật với lý do Bà V có những vi phạm như sau: - Lý do thứ nhất: Tự ý thay đổi thời gian hợp đồng lao động từ 01 năm thành 03 năm. Công ty cho rằng ngày 27/11/2019, Bà V có cuộc họp với ông M – Tổng Giám đốc của Công ty. Nội dung của cuộc họp là chuyển toàn bộ nhân viên Văn phòng đại diện (VPĐD) M3 sang Công ty C với thời hạn hợp đồng lao động 01 năm. Với lý do thứ nhất này Bà V hoàn toàn không đồng ý. Vì trước khi ký hợp đồng lao động với Công ty C, bà đang làm việc tại VPĐD M3 do ông M là người đại diện. Giữa VPĐD M3 với Công ty C không liên quan gì đến nhau. Công ty C hoàn toàn có tư cách pháp nhân độc lập và chính người đại diện hợp pháp của Công ty đã ký kết hợp đồng lao động với bà, là hoàn toàn trên ý chí tự nguyện của hai bên và theo đúng quy định của pháp luật. - Lý do thứ hai: Công ty cho rằng bà nghỉ phép vượt quá ngày quy định là 05 ngày (30/01/2020 đến ngày 14/02/2020), vẫn tự ý chấm công 05 ngày vượt quá để được hưởng tiền lương của tháng 02/2020, là hành vi không trung thực nhằm hưởng lợi cho cá nhân. Lý do này hoàn toàn không đúng. Theo quy định của hợp đồng lao động, thì mỗi năm Bà V được nghỉ 12 ngày phép. Tuy nhiên, Bà V chỉ nghỉ phép 07 ngày từ ngày 30/01/2020 đến ngày 07/02/2020. Do ngày 08, 09/02/2020 vào thứ bảy, chủ nhật nên Bà V đương nhiên được nghỉ. Đến ngày
3 10/02/2020, Bà V đi làm bình thường tại Công ty nên vẫn đảm bảo số ngày phép nghỉ đúng quy định. Quy trình chấm công là do nhân viên được giao nhiệm vụ của Công ty chấm công cho tất cả mọi người trong Công ty, bà không tự ý chấm công. Công ty vẫn thanh toán đầy đủ tiền lương tháng 02/2020 cho bà, mà không có bất kỳ ý kiến nào khác. - Lý do thứ ba: Tự ý làm việc tại nhà từ ngày 23/3/2020 đến ngày 06/4/2020 (10 ngày) không được sự đồng ý của Công ty. Đối với lý do này, Bà V thừa nhận không đến Công ty từ ngày 23/3/2020 đến ngày 06/4/2020 (10 ngày) và Công ty không có chủ trương làm việc tại nhà, nhưng trong thời gian làm việc tại nhà Bà V vẫn đảm bảo công việc được giao. Sau đó, Công ty có gửi email cho bà yêu cầu Bà V quay trở lại Công ty làm việc. Sau khi nhận được mail của Công ty, thì Bà V đã chấp hành và quay lại Công ty làm việc. Công ty vẫn thanh toán tiền lương bình thường cho Bà V vào những ngày làm việc tại nhà. Do đó, việc Công ty cho rằng Bà V tự ý bỏ việc là không đúng. Ngày 13/8/2020, Công ty có giao cho bà Quyết định sa thải và chính thức cho Bà V nghỉ việc từ ngày 14/8/2020. Bà V cho rằng những lý do trên để sa thải Bà V là hoàn toàn không đúng với quy định của pháp luật nên khởi kiện yêu cầu bị đơn phải nhận trở lại làm việc và bồi thường các khoản như sau: - Bồi thường 02 tháng tiền lương: 88.000.000 đồng x 02 tháng = 176.000.000 đồng; - Tiền lương những ngày không được làm việc từ ngày 14/8/2020 đến 30/8/2020, từ tháng 9/2020 đến tháng 6/2022 (ngày xét xử) với số tiền cụ thể như sau: + Từ ngày 14/8/2020 đến 30/8/2020 tính 12 ngày x 3.666.000 đồng/ngày = 43.992.000 đồng. + Từ tháng 9/2020 đến tháng 6/2022: 21 tháng x 88.000.000 đồng = 1.848.000.000 đồng. - Yêu cầu bị đơn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 8/2020 đến tháng 6/2022 theo luật định. Tổng số tiền yêu cầu bồi thường từ việc sa thải trái pháp luật là: 2.067.992.000 đồng. Ngoài ra, yêu cầu bị đơn phải thanh toán: - Tiền lương còn lại của 02 tháng bị tạm đình chỉ công việc của tháng 6/2020 là 28.000.000 đồng và 7/2020 là 44.000.000 đồng, tổng cộng 72.000.000 đồng; - Tiền lương những ngày làm việc tại Công ty từ ngày 03/8/2020 đến 13/8/2020 là 34.434.783 đồng. Rút phần yêu cầu buộc bị đơn thanh toán tiền lương tháng 13/2020 (theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động) là 88.000.000 đồng. Bà V không đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn.
4 * Tại đơn phản tố, các lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của bị đơn là bà H có lời trình bày: Thống nhất với nguyên đơn về nội dung hợp đồng đã ký kết. Quá trình làm việc, Bà V có nhiều vi phạm dẫn đến ngày 01/6/2020 Công ty ban hành quyết định tạm đình chỉ Hợp đồng lao động, thời hạn tạm đình chỉ là 60 ngày kể từ ngày 02/6/2020 đến ngày 31/7/2020. Lý do tạm đình chỉ là để Công ty tiến hành điều tra xác minh sai phạm của Bà V. Trong 02 tháng tạm đình chỉ, công ty đã thanh toán tiền lương tháng 6/2020 là 60.000.000 đồng/88.000.000 đồng và tháng 7 là 44.000.000 đồng/88.000.000 đồng. Gần hết thời hạn tạm đình chỉ công việc, Công ty có gửi thư mời họp cho Bà V. Thời gian họp vào lúc 09 giờ ngày 03/8/2020. Do Bà V có nhiều sai phạm nên tại buổi họp ngày 03/8/2020, Công ty có đề xuất bà tự nguyện xin nghỉ việc. Nếu Bà V không đồng ý nghỉ việc thì Công ty sẽ kỷ luật và sa thải. Cuộc họp này chỉ trao đổi bằng miệng, không được lập thành biên bản. Do Bà V không tự nguyện nghỉ việc. Ngày 03/8/2020 Bà V quay trở lại làm việc tại Công ty. Sau đó, Công ty có gửi thư mời để dự họp xử lý kỷ luật vào ngày 13/8/2020. Ngày 13/8/2020, tại Công ty đã diễn ra cuộc họp với nội dung xử lý vi phạm kỷ luật đối với Bà V. Lý do Công ty xử lý vi phạm cụ thể như sau: - Lý do thứ nhất: Do Bà V tự ý thay đổi thời gian hợp đồng lao động của Bà V từ 01 năm thành 03 năm. Vì ngày 27/11/2019 Bà V có cuộc họp với ông M – là người đại diện ủy quyền của Văn phòng đại diện M3. Sau đó, VPĐD M3 với người đại diện hợp pháp của Công ty C trao đổi với nhau là chuyển toàn bộ nhân viên VPĐD M3 sang Công ty C làm việc, rồi ký kết hợp đồng lao động xác định thời hạn hợp đồng lao động 01 năm. Bà V đã lợi dụng sự tin tưởng của Công ty để tự ý thay đổi thời hạn của hợp đồng lao động. - Lý do thứ hai: Theo hợp đồng lao động thì mỗi năm Bà V có 12 ngày phép (tương đương mỗi tháng sẽ có 01 ngày phép). Từ ngày 01/12/2019 ký kết hợp đồng lao động cho đến ngày 13/8/2020, Bà V sẽ có 8.5 ngày phép (trong biên bản xử lý vi phạm thể hiện từ ngày 01/12/2019 đến ngày 30/6/2020 Bà V có 8.5 ngày phép, tuy nhiên biên bản ghi ngày 30/6/2020 là có sự nhầm lẫn, bị đơn xác định lại là từ ngày 01/12/2019 đến ngày 13/8/2020). Trước đó, ngày 10/01/2020 Bà V nghỉ 01 ngày, ngày 15/01/2020 Bà V nghỉ 0,5 ngày. Bà V chỉ còn 07 ngày phép. Trong khi đó, Bà V nghỉ phép từ ngày 30/01/2020 đến ngày 14/02/2020 (trừ ngày thứ bảy và chủ nhật) là 12 ngày. Như vậy, Bà V tự ý nghỉ vượt 05 ngày/tháng, mà vẫn tự ý chấm công 5 ngày này để được hưởng tiền lương của tháng 02/2020 là hành vi không trung thực với Công ty, nhằm hưởng lợi cho cá nhân của Bà V là không phù hợp theo yêu cầu của Công ty. - Lý do thứ ba: Bà V tự ý bỏ việc từ ngày 23/3/2020 đến ngày 06/4/2020 (10 ngày) không được sự đồng ý của Công ty. Như vậy, Bà V đã tự ý bỏ việc liên tục 10 ngày trong 01 tháng. Sau đó, lãnh đạo Công ty đã có gửi thư điện tử (email) yêu cầu Bà V quay trở lại Công ty làm việc.

Tài liệu liên quan

x
Báo cáo lỗi download
Nội dung báo cáo



Chất lượng file Download bị lỗi:
Họ tên:
Email:
Bình luận
Trong quá trình tải gặp lỗi, sự cố,.. hoặc có thắc mắc gì vui lòng để lại bình luận dưới đây. Xin cảm ơn.