Content text chương 21 kênh nhĩ thất.pdf
56 bốn buồng từ mỏm (Hình 21.4). Trong thì tâm trương, khi van chung mở có thể thấy khiếm khuyết ở giữa tim (còn được gọi là gối nội mạc (crux) do thiếu mô (Hình 21.3, 21.5, 21.6) và ASD và VSD lớn ở vùng AV (Hình 21.5, 21.6). Tuy nhiên, kích thước ASD và VSD có thể khác nhau và nếu nhỏ sẽ rất khó phát hiện trên siêu âm 2D (Hình 21.6D, F). Các tác giả khuyến cáo sử dụng chức năng vòng lặp (cine-loop) để cuộn từng hình ảnh giúp quan sát các cấu trúc tim rõ ràng hơn ở các pha khác nhau của chu chuyển tim (Hình 21.7, 21.8). Trong thì tâm thu, khi van nhĩ thất chung đóng, mất sự bám lệch về phía mỏm bình thường của van ba lá trên vách liên thất và van AV chung giống như một đường thẳng cắt ngang (Hình 21.4, 21.5B, 21.7B, 21.8B). Trong AVSD bán phần, có thể thấy van AV thẳng hàng, kèm theo ASD vách nguyên phát, nhưng không có VSD lớn (xem Chương 19 về ASD). Các dạng AVSD nhẹ có thể bị bỏ sót, đặc biệt ở mặt căt bốn buồng từ bên, do không thể đánh giá đầy đủ vị trí bám van nhĩ thất (Hình 21.7, 21.8) hoặc lỗ thông quá nhỏ để có thể thấy rõ ở các mặt cắt từ bên (Hình 21.8). Điều thú vị là các tác giả nhận thấy, tỷ số chiều dài AV (AVL) tăng ở những thai nhi có AVSD (bình thường 0,5), và dấu hiệu này có thể được dùng để giúp phát hiện AVSD (10) (Hình 21.9, 21.10). Với tỷ số AVL > 0,6 có tỷ lệ phát hiện AVSD là 83%, với tỷ lệ dương tính giả 5,7% (10) (Hình 21.10). Với bác sĩ siêu âm có kinh nghiệm, sẽ cố gắng cắt cho được mặt cắt trực diện của van chung (Hình 21.11), cũng có thể thực hiện với các kỹ thuật 3D khác nhau. đăng ký bộ tài liệu siêu âm sản khoa sách dịch zalo 052249705