PDF Google Drive Downloader v1.1


Report a problem

Content text ĐỀ SỐ 4.docx

ĐỀ SỐ 4 I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm) Đọc văn bản sau: THỜI XA VẮNG (Trích) (Lê Lựu) Tóm tắt tiểu thuyết Thời xa vắng: Giang Minh Sài sinh ra trong gia đình nho giáo, học giỏi, là niềm hi vọng của cả gia đình và dòng họ. Theo tư tưởng cũ, 12 tuổi Sài bị ép kết hôn với Tuyết - một cô gái hơn anh 3 tuổi. Sau đó Sài gặp và yêu Hương. Tuổi trưởng thành, Sài đăng kí nhập ngũ đi B. Vào chiến trường, Sài là một cá nhân điển hình của đơn vị. Sau 11 năm ở chiến trường trở về, Sài li dị Tuyết, cưới Châu nhưng cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Cuối cùng, Sài về quê sống, tham gia phát triển quê hương mình. Đoạn trích kể về những ngày đầu Sài vào chiến trường: Vượt qua sông Bạc được một đêm Sài phải nằm lại. Đã ba ngày lên cơn sốt li bì bỏ cơm, đến chiều anh vẫn cuốn võng chống gậy ra đi. Đêm nay anh không còn biết gì nữa. Mắt đã dại đi, da tím bầm và quai hàm cứng ngắc không thể nuốt nổi chén sâm cô y tá vừa pha. Đợi tiêm một loạt ba mũi thuốc xong hai chiến sĩ của đơn vị phải ở lại cùng cô y tá, người còn lại cuối cùng ở bãi khách, khiêng Sài đến trạm quân y binh trạm cách đấy một ngày đường. Như tất cả những người chiến sĩ ra mặt trận lúc bấy giờ mục đích thiêng liêng và cao cả của họ là được giết giặc lập công nhưng hai người đã phải ở lại trạm quân y suốt sáu tháng trời. Khiêng Sài đến nơi, họ phải nuôi quân thay cho một cô nuôi quân bị thương trên đường đi lấy nước và một cô đang lên cơn sốt. Mới đầu do yêu cầu của trạm và không nỡ bỏ bạn đang từng giờ không biết sống chết ra sao, về sau trạm phải di chuyển liên miên và thương binh càng nhiều hai chiến sĩ nhận quyết định thành quân số chính thức của binh trạm 37. Những ngày sốt liên miên, những cơn co giật của trận sốt ác tưởng không thể nào qua được, sáu tháng Sài mới ra khỏi bệnh viện. Anh được điều làm trung đội trưởng thuộc đại đội công binh giữ ngầm Ông Thao ở phía Nam Xê Băng Hiêng 1 . [...] Về đến đơn vị anh ra mặt đường ngay. Đại đội trưởng quyết định anh ở nhà nghỉ thêm một tuần. [...] Được nghỉ thêm ít ngày Sài có khỏe ra nhưng anh thèm rau quá và rất muốn đi kiếm, bất kể là rau gì. Còn là lính mới anh không thể vượt qua những núi đá và rừng cây đã bị chất độc hóa học làm cháy khô. Chiều ý anh, ngày hôm sau đại đội trưởng cho liên lạc dẫn Sài đi kiếm rau, kiếm măng, nấm và quả chua. Đi và về phải hai ngày nhưng cứ mang ruốc, lương khô đủ tiêu chuẩn cho bốn ngày. Hai anh em khoác súng, ba lô đi từ sáng sớm, khoảng quá chiều đã đến khu rừng thưa, cao ráo, phần nhiều là lim, săng lẻ và cây bông tàu tròn thẳng tuồn tuột, vỏ trắng nhợt nhưng lại rắn đinh. Cậu liên lạc tên là Thêm. Cậu ta đi thoăn thoắt, nói thoăn thoắt, dường như khu rừng này là vườn nhà của cậu ta. Chỗ nào có rau, con suối ở dưới chân chảy đi đâu, chỗ nào có nấm mới? Anh có thích uống mật ong không? Thôi để đến mai, lúc nào uống hết nước có bi đông đựng mật ong ta mới “dứt điểm”. Cứ tưởng cậu ta đã ở vùng này nhiều, sau mới biết là Thêm cũng chỉ đến đây lần đầu. Vừa tinh nhanh, vừa liều lĩnh, đi đến bất cứ chỗ nào Thêm cũng không bỏ qua một chi tiết nhỏ. Chỉ cần vài tiếng buổi chiều hai người đã lấy được một ba lô măng nứa và một bọc phải đến hai cân mộc nhĩ. Chuyến đi có thể gọi là vô cùng thắng lợi nếu không có trận mưa đêm mà họ không ngờ tới,... Lược một đoạn: Sau cơn mưa, Sài và Thêm gặp một tốp phản lực ném bom. Thêm bị thương, máu ra nhiều, Sài cõng Thêm tìm về đơn vị. 1 Xê Băng Hiêng: tên dòng sông bắt nguồn từ phía tây dãy núi Trường Sơn, ở địa phận xã Hướng Lập, huyện Hướng Hóa của tỉnh Quảng Trị, chảy về phía tây biên giới Lào – Việt.
Không hiểu mới nửa đêm hay đã gần sáng. Không hiểu mình đang nằm ở bãi biển hay trong gian buồng xây kín quanh năm ngày cũng như đêm! Chỉ thấy hơi lành lạnh ở lưng. Muốn giơ tay lên nhưng không tài nào nhấc nổi. Phải ú ớ như muốn giãy giụa, muốn vùng đạp mới mở được mắt ra. Sài sờ lên lưng. Không có Thêm. Quờ ra xung quanh cũng không thấy. Mồ hôi anh tóa ra, hai chân muốn khuỵu xuống. Anh bấm đèn loang loáng ra tứ phía. Chỗ nào cũng thấy um tùm đen tối, cũng như là nơi rình rập của kẻ địch. Định cất tiếng gọi, lưỡi ríu lại, cổ họng nghẹn khô, Sài không sao cất nổi một lời, dù là nhỏ nhoi. Sau phút choáng váng, anh lội xuống suối bấm đèn tìm bạn. Lội giật lùi được đến đầu gối nước anh nhận ra Thêm đang giang hai tay nằm sấp ở bờ suối. Sài mừng rỡ xô đến gọi bạn. Vừa chạm đến người Thêm, anh đã run bắn lên. Nhìn bạn gục xuống mặt nước anh hiểu vì sao nên nông nỗi này. Anh muốn kêu lên. Không kêu nổi. Anh muốn khóc, khóc không ra nước mắt. Nỗi căm giận chính mình trào lên trong anh. Bất chấp cả sợ hãi anh xốc bạn lên cố cõng Thêm lội theo bờ suối. Lúc bấy giờ anh chưa hề có cảm giác hoặc không còn cảm giác là bạn đã chết, chỉ thấy có bạn trên lưng, anh thấy vững tâm hơn. Và cũng không hiểu, mãi sau này cũng không ai giải thích được tại sao anh lại cõng nổi người bạn đã hy sinh trên người luồn rừng, lội suối suốt mười lăm tiếng đồng hồ. Đến con đường giao liên, anh ngã vật ra. Hai người nằm nghiêng úp mặt vào nhau như hai người bạn tri kỉ đang trò chuyện, tay anh ôm ngang lưng bạn, và bạn gác cái chân bị thương qua người anh. Đến gần mới biết cả hai người lính trẻ ấy đều như đang ngủ rất ngon lành. (Lê Lựu, Thời xa vắng, NXB Văn học, Hà Nội, 2021, tr.1140-118) Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: Câu 1. Nhân vật Sài và Thêm trong câu chuyện ở vào hoàn cảnh như thế nào? Câu 2. Tác giả sử dụng việc tái tạo ngôn ngữ nói của nhân vật Thêm hòa vào lời kể của người kể chuyện trong những câu văn nào? Câu 3. Hãy nêu và làm rõ nhận xét của anh/chị về nhân vật Sài trong văn bản. Câu 4. Anh/chị có ấn tượng sâu đậm với chi tiết nào trong văn bản? Vì sao? Câu 5. Trình bày suy nghĩ của anh/chị về sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước qua văn bản trên. II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận của anh/chị về tình cảm quê hương được thể hiện trong bài thơ sau. Phiên âm: Thiếu tiếu li gia, đại lão hồi, Hương âm vô cải, man mao tồi. Nhi đồng tương kiến, bất tương thức, Tiểu vấn, khách tòng hà xứ lai? (Hạ Tri Chương, Hồi hương ngẫu thư) Dịch thơ: Khi đi trẻ, lúc về già, Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao. Trẻ con nhìn lạ không chào, Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi? (Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê, Phạm Sĩ Vĩ dịch, theo Ngữ văn 7, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2020, tr. 126) Câu 2 (4,0 điểm)
Trình bày cảm nhận và suy ngẫm của anh/chị về câu chuyện sau: Em tôi học đến kiệt sức để có một suất du học. Thư đầu gửi về, em viết: “Ở đây, đường phố sạch đẹp, văn minh, bỏ xa nước mình...”. Cuối năm em viết: “Mùa đông bên này tĩnh lặng, tinh khiết như tranh, thích lắm...”. Mùa đông sau em viết: “Em thèm một chút nắng ấm quê nhà, muốn được đi giữa phố xá ồn ào, bụi bặm, nhớ chợ bến xôn xao, lầy lội... Biết bao lần trên phố, em đuổi theo một người châu Á để hỏi có phải người Việt mình không”. (Sưu tầm từ Internet)

Related document

x
Report download errors
Report content



Download file quality is faulty:
Full name:
Email:
Comment
If you encounter an error, problem, .. or have any questions during the download process, please leave a comment below. Thank you.