Content text A 265_QUY DINH MUC VU BI TICH 2015 - GP. SAI GON.pdf
11. Thinh lặng là một phần của việc cử hành nên cần phải được tuân giữ. Ý nghĩa của sự thinh lặng tùy thuộc vào lúc phải giữ trong mỗi cử hành: trong nghi thức sám hối và sau lời mời gọi cầu nguyện đầu lễ là thời gian để mọi người hồi tâm; sau bài đọc hoặc bài giảng là để mọi người suy gẫm vắn tắt về những gì đã nghe; còn sau khi rước lễ là để ca ngợi và cầu xin Thiên Chúa trong lòng.[17] 12. Trước khi công bố Tin Mừng, thừa tác viên chắp tay cúi mình trước bàn thờ (không phải trước Thánh giá) trong khi đọc lời nguyện “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy tâm hồn và môi miệng con...”[18] Khi thừa tác viên tiến đến giảng đài, mọi người hiện diện cùng hướng về đó để tỏ lòng tôn kính đặc biệt đối với Tin Mừng Chúa Kitô.[19] Phó tế hoặc linh mục mở đầu bằng việc chắp tay chào cộng đoàn “Chúa ở cùng anh chị em”, rồi sau đó kết thúc bằng câu tung hô “Đó là lời Chúa” mà không nâng sách lên.[20] 13. Sau khi đặt bánh rượu, linh mục cúi mình trong khi đọc lời nguyện: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin thương nhận chúng con đang hết lòng khiêm nhường thống hối...” chứ không phải cúi sau khi đã đọc lời nguyện.[21] 14. Xông hương là hành động bày tỏ sự tôn kính hay diễn tả lời cầu nguyện. Linh mục bỏ hương vào bình và thinh lặng làm phép bằng một dấu thánh giá. Trước và sau khi xông hương, thừa tác viên cúi mình chào người hoặc vật được xông hương, trừ bàn thờ và lễ vật dùng cho Thánh lễ. Tùy theo đối tượng được xông hương mà có thể xông ba lần kép (Thánh Thể, thánh giá, sách Tin Mừng, nến Phục sinh, lễ vật, linh mục và cộng đoàn), hai lần kép (hài cốt và ảnh tượng các thánh) hoặc là xông từng nhịp một chung quanh bàn thờ.[22] 15. Đưa tay khi truyền phép: trong khi đọc lời truyền phép, các linh mục đồng tế đưa tay phải về phía bánh và chén, lòng bàn tay đứng.[23] 16. Dang tay là cử chỉ của chủ tế khi hành động nhân danh Chúa Kitô là đầu (In persona Christi capitis). Chỉ có chủ tế và các vị đồng tế dang tay trong khi đọc Kinh Lạy Cha, cộng đoàn không dang tay.[24] 17. Nghi thức chúc bình an không bao hàm ý nghĩa hòa giải, nhưng có mục đích biểu lộ sự bình an, hiệp thông và lòng bác ái trước khi lãnh nhận Thánh Thể.[25] Chủ tế và cộng đoàn chúc bình an cho nhau qua công thức đối đáp “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em - Và ở cùng cha”. Sau đó, chủ tế chỉ chúc bình an cho các đồng tế, phó tế, hay các thừa tác viên ở gần ngài.[26] Trong nghi thức này, phải tránh rời vị trí, gây xáo trộn cộng đoàn cũng như những cử chỉ “mang tính thế tục”.[27] 18. Cử chỉ bẻ bánh biểu thị rằng các tín hữu làm nên một thân thể khi thông hiệp vào cùng một tấm bánh (x. 1Cr 10,17). Nghi thức này bắt đầu sau nghi thức chúc bình an để chuẩn bị cho phần hiệp lễ, chứ không thực hiện kèm theo lời tường thuật thiết lập bí tích Thánh Thể.[28] 19. Nghi thức kết thúc: nếu ngay sau Thánh lễ có cử hành nghi thức phụng vụ nào khác (vd: chầu Thánh Thể, nghi thức phó dâng và từ biệt) thì bỏ nghi thức kết thúc, nghĩa là bỏ câu chào chúc, phép lành và lời giải tán.[29] 3. Các bài đọc và bài giảng 20. Qua các bài đọc Kinh Thánh trong cử hành phụng vụ, Thiên Chúa nói với dân Ngài và Đức Kitô hiện diện cùng loan báo Tin Mừng qua lời của Người.[30] Vì thế, mọi người phải kính cẩn lắng nghe Lời Chúa do thừa tác viên công bố chứ không được phép cùng đọc với thừa tác viên.[31] 21. Các bài đọc Kinh Thánh luôn phải được công bố tại giảng đài.[32] Không được dùng giảng đài cho những việc khác ngoài phụng vụ Lời Chúa và công bố Tin Mừng Phục Sinh trong đêm Canh thức Vượt Qua.[33]
33. Đức Tổng Giám mục cho phép đồng tế trong những trường hợp dưới đây[54], nhưng chỉ một lần trong ngày hoặc kèm với những dịp luật cho phép ở trên. Tuy nhiên, các linh mục vẫn phải giữ nguyên tắc chỉ cử hành Thánh lễ tối đa hai lần trong ngày thường và ba lần vào ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc. - Lễ tạ ơn của tân linh mục, tạ ơn khấn trọn của tu sĩ; - Lễ kỷ niệm thụ phong linh mục; - Lễ mừng ngân khánh, kim khánh, ngọc khánh linh mục hoặc khấn dòng; - Lễ bổn mạng giáo xứ; - Lễ bổn mạng linh mục; - Dịp tĩnh tâm hay hội họp huấn luyện các thành viên Hội đồng Mục vụ Giáo xứ, các giới, các hội đoàn cấp giáo phận và giáo hạt. - Lễ an táng và lễ giỗ[55]: + An táng Linh mục, tu sĩ, chủng sinh và song thân của các vị này; + An táng quý chức tân cựu trong Ban thường vụ Hội đồng Mục vụ Giáo xứ; + Giỗ Giám mục; + Giỗ Linh mục; + Giỗ đầu hay mãn tang ông bà cố. IV. THÁNH LỄ TẠI GIA 34. Theo luật chung, khi ban phép Xức dầu bệnh nhân hay khi cho rước lễ như Của ăn đàng, tùy theo hoàn cảnh mục vụ, linh mục có thể cử hành thánh lễ tại gia.[56] 35. Linh mục về nghỉ hưu tại nhà riêng có thể dâng lễ tại gia, nhưng không được quy tụ giáo dân. 36. Có thể cử hành một Thánh lễ tại gia cầu cho người tín hữu mới qua đời. Trường hợp không thể đưa linh cữu tới nhà thờ thì được cử hành thêm một Thánh lễ an táng tại tư gia. 37. Trường hợp cha mẹ của linh mục qua đời: trong thời gian đặt di hài tại nhà, có thể mỗi ngày dâng một Thánh lễ tại gia, trong đó chỉ có một lễ đồng tế. V. BỔNG LỄ 38. Phải áp dụng từng Thánh lễ theo từng ý chỉ của người xin, dù bổng lễ là nhỏ mọn.[57] Linh mục không được phép tự ý gộp nhiều bổng lễ với nhiều ý lễ khác nhau trong một Thánh lễ.[58] 39. Khi linh mục cử hành nhiều Thánh lễ trong cùng một ngày thì có thể áp dụng mỗi lễ cho một ý chỉ cùng với bổng lễ được dâng. Linh mục chỉ có quyền hưởng dụng cho mình một bổng lễ, và có thể giữ lại hai phần ba (2/3) bổng lễ của lễ thứ hai hay thứ ba, nhưng phải sử dụng vào công việc mục vụ. Không được nhận bổng lễ khi đồng tế thánh lễ thứ hai trong cùng một ngày.[59] 40. Các hình thức Lễ Hậu hay “Lễ đời đời” được công nhận trước đây đều đã bãi bỏ; hiện nay, không còn duy trì hình thức “Lễ đời đời” trong Tổng giáo phận.[60] VI. TÔN SÙNG THÁNH THỂ 1. Rước lễ ngoài Thánh lễ: 41. Vì một lý do chính đáng, người tín hữu có thể xin và được cho rước lễ ngoài Thánh lễ, nhưng vẫn phải giữ những nghi thức phụng vụ.[61] 42. Khi vắng linh mục, cộng đoàn có thể cử hành phụng vụ Lời Chúa, nhưng nếu vào những ngày trong tuần thì không có nghi thức rước lễ.[62] 2. Chầu Thánh Thể: 43. “Việc tôn sùng Thánh Thể ngoài Thánh lễ mang một giá trị vô song trong đời sống của Giáo Hội... Các mục tử có nhiệm vụ khuyến khích, bằng cả chứng tá cá nhân, việc tôn sùng