Content text A 262.9_BO GIAO LUAT 1983 - BAN DICH TRUOC.pdf
Bộ Giáo Luật - The Code of Canon Law Lời Nói Ðầu Bản dịch Việt ngữ của Bộ Giáo Luật do các Linh Mục sau đây thực hiện: Nguyễn Văn Phương, Phan Tấn Thành, Vũ Văn Thiện, Mai Ðức Vinh. Trước khi trình bày phương pháp làm việc, chúng tôi thiết nghĩ nên có đôi lời giới thiệu Bộ Giáo Luật. I. Bố Cục Của Bộ Giáo Luật Bộ Giáo Luật được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25/1/1983, hai mươi bốn năm sau khi vị Tiền nhiệm, Ðức Gioan XXIII tuyên bố quyết định tu chính. Nguyên bản la ngữ mở đầu với Tông Hiến "Sacrae disciplinae leges", tức văn kiện ban hành Bộ Luật. Ngoài ra, văn kiện này còn có tính cách quan trọng khác. Ðức Thánh Cha không những giải thích lý do của việc tu chính Bộ Giáo Luật, nhưng nhất là lý do hiện hữu của luật pháp trong Giáo Hội. Mục đích của luật lệ không những chỉ nhằm duy trì trật tự trong Giáo Hội xét như là một cộng đoàn, nhưng nhất là nhằm phục vụ sứ mạng mà Ðức Kitô đã trao phó: thông truyền các ân huệ cứu rỗi, đặc biệt là Lời Chúa và các Bí Tích. Kế đến là lời tựa của ủy ban tu chính giáo luật, tóm lại diễn tiến các giai đoạn làm việc của ủy ban kể từ ngày thành lập (28/3/1963) cho đến ngày hoàn tất dự thảo cuối cùng (22/4/1982). Chúng tôi không dịch lời tựa này, nhưng chỉ tóm lại trong phần thứ hai của bài giới thiệu. Tiếp theo là chính Bộ Giáo Luật gồm 1752 điều, và chia ra làm 7 quyển. Quyển 1: Tổng tắc (Denormis generalibus): điều 1-203 Quyển 2: Dân Chúa (De Populo Dei): điều 204-746 Quyển 3: Nhiệm vụ giáo huấn của Giáo Hội (De Ecclesiae munere docendi): điều 747-833 Quyển 4: Nhiệm vụ thánh hóa của Giáo Hội (De Ecclesiae munere sanctificandi): điều 834-1253 Quyển 5: Tài sản của Giáo Hội (De bonis Ecclesiae temporalibus): điều 1254-1310 Quyển 6: Chế tài trong Giáo Hội (De sanctionibus in Ecclesia): điều 1311-1399 Quyển 7: Tố tụng (De processibus): điều 1400-1752 Quyển thứ nhất có tính cách kỹ thuật, bao gồm các quy tắc tổng quát liên can đến việc thiết lập, ban hành, giải thích các hành vi lập pháp và hành chánh. Các quyển thứ hai, ba, tư nói về ba nhiệm vụ chính của Giáo Hội: cai quản, giảng dạy, thánh hóa. Quyển thứ hai dài nhất, chia thành 3 phần. Phần thứ nhất nói về các tín hữu, tức là chung cho tất cả các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Nói khác đi, trong phần này, giáo luật bàn về các điều kiện chung cho các tín hữu, những người tin theo Ðức Kitô và lĩnh phép rửa tội trong Giáo Hội công giáo. Phần thứ hai bàn về các cơ cấu, chức phận trong Dân Chúa xét dưới khía cạnh tổ chức phẩm trật, nhằm phục vụ Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương. Phần thứ ba dành cho các Hội Dòng tận hiến và các Tu Ðoàn Tông Ðồ, tức là những tín hữu tình nguyện giữ ba lời khuyên Phúc Âm qua một dây ràng buộc thánh (lời khấn, lời hứa hay lời thề).
các hiệp hội, các hội đồng mục vụ, các công nghị miền, v.v... Giáo dân có thể đảm nhận một số chức vụ trong Giáo Hội. Một điểm khá quan trọng nữa trong Hiến Chế về Giáo Hội của Công Ðồng Vatican II là tương quan giữa các Giám Mục với Ðức Thánh Cha. Các Giám Mục không phải là nhân viên của Tòa Thánh, theo kiểu các tỉnh trưởng trong tương quan với chủ tịch nhà nước. Không phải thế, các Giám Mục lãnh đạo các Giáo Hội địa phương với quyền hành lãnh nhận từ Ðức Kitô qua Bí Tích Truyền Chức, chứ không phải từ Tòa Thánh. Do đó, Bộ Giáo Luật 1983 dành nhiều quyền hạn (và dĩ nhiên là nhiều trách nhiệm hơn) cho các Giám Mục trong việc điều hành giáo đoàn của mình. Ngoài ra, Bộ Giáo Luật mới cũng lưu ý đến Giám Mục Ðoàn, một thực thể không được lưu ý lắm trong Bộ Giáo Luật trước đây. 4 Nguyên tắc thứ tư: nguyên lý hỗ trợ (subsidiarietas). Theo nguyên tắc này, cấp trên không nên can thiệp và quyết định trong một lãnh vực mà cấp dưới có thể làm được. Cấp trên chỉ "hỗ trợ" cho cấp dưới trong những gì vượt quá khả năng của họ, chứ không dành quyền định đoạt tất cả, không dành cho cấp dưới sáng kiến nào hết. Áp dụng vào tổ chức Giáo Hội, Bộ Giáo Luật sẽ giới hạn vào những lãnh vực phổ quát nhằm duy trì sự thống nhất căn bản trong toàn thể Giáo Hội. Còn những chi tiết thì để cho các địa phương định liệu, tùy theo nhu cầu, tập quán của từng nơi. Xét rằng Bộ Giáo Luật có giá trị cho các Giáo Hội thuộc nhiều nền văn hóa, hoàn cảnh nhân bản, lãnh thổ khác nhau, nhà lập pháp trung ương không thể nghĩ ra một giải pháp tỉ mỉ có thể áp dụng bất biến khắp nơi được. Vì vậy, với bộ luật này, trách nhiệm lập pháp của các Giám Mục và Hội Ðồng Giám Mục sẽ nặng hơn, bởi vì họ phải tìm ra những biện pháp thích ứng với địa phương của họ, không thể mong chờ những giải đáp tiền chế từ Rôma nữa. 5) Nguyên tắc thứ năm: bảo vệ quyền lợi tín hữu. Luật pháp không thể chỉ nhằm cổ võ trật tự công cộng, nhưng còn phải để ý đến việc thăng tiến con người xét như là nhân vị nữa. Trong Giáo Hội, giá trị của nhân vị càng được đặt cao hơn, xét vì Giáo Hội thâm tín rằng con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được dành đến sự hưởng kiến nhan Chúa. Hoạt động của Giáo Hội nhằm đến phần rỗi con người, con người xét theo cá thể chứ không phải như những con số của một tập thể. Việc bảo vệ quyền lợi của các tín hữu, ngoài đặc tính mục vụ đã nói ở nguyên tắc thứ hai, còn đòi hỏi phải có những định chế hữu hiệu khác nữa. Một vài chế tài hay hạn chế cổ truyền đã được duyệt lại, ngõ hầu giảm bớt sự cưỡng bách bên ngoài và cổ võ tinh thần trách nhiệm cá nhân. Ngoài ra Bộ Giáo Luật 1983 còn đặt ra vài quy tắc điều hành hoạt động của các cơ quan hành chánh trong Giáo Hội: các cơ quan ấy phải hoạt động hợp với luật lệ; những hành vi bất hợp pháp của các cơ quan ấy sẽ bị chế tài. 6) Sau cùng, trong việc tu chính Bộ Giáo Luật, ủy ban không thể làm ngơ đến phong trào đại kết. Ðành rằng công cuộc hợp nhất các người Kitô không thể chỉ nhờ giáo luật mà thành tựu, tuy nhiên, giáo luật có thể đóng góp vào công cuộc ấy bằng cách loại bỏ những bức tường ngăn cách không cần thiết. Bộ Giáo Luật 1983 dành nhiều khoản quy định việc cử hành phụng tự chung với các anh em Kitô khác. Ngoài ra, Giáo Hội công giáo cũng nhìn nhận thẩm quyền của các Giáo Hội khác trong việc ban hành kỷ luật nội bộ. Chính vì phải sửa đổi quan niệm về vai trò của giáo luật trong Giáo Hội chứ không phải chỉ thay đổi vài khoản luật, nên công cuộc tu chính đã mất hai mươi bốn năm,