Content text khoa luan Giang 2017_1
1 ĐẶT VẤN ĐỀ Y học cổ truyền (Traditional medicine) là “toàn bộ những kiến thức, kỹ năng, thực hành dựa trên những nền tảng lý luận, lòng tin và kinh nghiệm của mỗi khu vực, mỗi nền văn hóa khác nhau. Được sử dụng để duy trì sức khỏe, cũng như phòng và chữa bệnh, cải thiện, điều trị những rối loạn thể chất, tinh thần” [1]. Vai trò và hiệu quả phòng bệnh, chữa bệnh của Y học cổ truyền (YHCT) ngày càng được nhiều nước trên thế giới công nhận và xác định như một nhân tố quan trọng đảm bảo sự thành công của chiến lược Chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ). Tháng 11 năm 2008, tại đại hội YHCT toàn thế giới do Tổ chức y tế thế giới-WHO tổ chức tại Bắc Kinh đã tuyên bố: “Trong 50 năm đầu của thế kỷ 21, YHCT có vai trò quan trọng trong CSSKBĐ nhất là đối với các nước đang phát triển vì tính hiệu quả và rẻ tiền của nó” [2]. Tại Việt Nam, YHCT là thành phần không thể thiếu trong hệ thống y tế, có vai trò và tiềm năng to lớn trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe (CSSK) nhân dân [3]. YHCT Việt Nam có từ lâu đời, cội nguồn là những kinh nghiệm dân gian hình thành qua quá trình đấu tranh sinh tồn với bệnh tật, được lưu truyền và liên tục bổ sung bởi kinh nghiệm của các thế hệ, được soi sáng bởi nền tảng lý luận vững chắc, đang ngày một hoàn thiện và khoa học hơn [4]. Với những ưu điểm như đơn giản, hiệu quả, rẻ tiền, sẵn có và duy trì được bản sắc dân tộc, YHCT đã phát huy được thế mạnh của mình trong hệ thống CSSK nói chung và đặc biệt là trong CSSKBĐ tại các tuyến y tế cơ sở nói riêng và ngày càng được chú trọng trong hệ thống y tế nước nhà.
2 Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng để đẩy mạnh công tác y học cổ truyền trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế việc triển khai những chủ trương của Đảng, Nhà nước và ngành Y tế về phát triển YHCT vẫn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở các trạm y tế xã (TYTX), các cộng đồng nghèo, nông thôn hẻo lánh, xa trung tâm y tế. Để tìm hiểu rõ thực trạng cung cấp dịch vụ YHCT hiện nay và góp phần cho công tác CSSKBĐ bằng YHCT ngày một tốt hơn, chúng tôi đã kết hợp với các trạm y tế xã huyện Bình Lục tiến hành nghiên cứu “Thực trạng cung cấp dịch vụ y học cổ truyền tại một số trạm y tế xã huyện Bình Lục– tỉnh Hà Nam năm 2016” với các mục tiêu sau : 1. Mô tả cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, nguyên dược liệu và nguồn nhân lực tại các trạm y tế xã huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam năm 2016. 2. Mô tả tình hình cung cấp dịch vụ YHCT tại các trạm y tế xã huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam năm 2016.
3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. YHCT trong CSSK ở một số nước trên thế giới: Y học cổ truyền là thuật ngữ đề cập tới những cách bảo vệ và phục hồi sức khỏe ra đời, tồn tại trước khi có YHHĐ, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”. Mỗi nền YHCT trên thế giới đều gắn liền với đặc điểm văn hóa và lối sống của mỗi dân tộc khác nhau, có những đóng góp ở nhiều mức độ khác nhau vào sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân và trở thành một phần của di sản văn hóa các dân tộc đó [5]. Trong tuyên ngôn Almata “Sức khỏe cho mọi người” năm 1978 WHO đã kêu gọi các quốc gia đưa YHCT vào trong hệ thống CSSK và công nhận vị trí của thầy thuốc YHCT trong hệ thống y tế. Kết quả là hơn 30 năm qua việc sử dụng YHCT trong CSSK ban đầu tại tuyến y tế cơ sở đã tăng lên một cách đáng kể ở những nước đang phát triển cũng như việc sử dụng những thuốc bổ trợ và thay thế ở những nước phát triển trên thế giới. YHCT đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia. Theo thống kê tại Châu Phi có 80% dân số sử dụng YHCT trong CSSK. Tại Mỹ-La tinh số người sử dụng YHCT ngày một tăng. Theo báo cáo của WHO, 71% dân số Chile sử dụng YHCT và 40% dân số Colombia đã sử dụng YHCT trong khám chữa bệnh [6]. Tại Ethiopia tỷ lệ dân số sử dụng YHCT trong CSSKBĐ lên tới 90%, con số này tại Rwanda là 70%, Uganda và Ghana là 60%. Tại Nam Phi có tới 30 triệu người được điều trị bằng YHCT và có khoảng 200 nghìn thầy thuốc YHCT trong hệ thống y tế [7].
4 Tại châu Á, một trong các quốc gia tiêu biểu có nền YHCT phát triển cao phải kể tới là Trung Quốc. Nền YHCT Trung Quốc có từ lâu đời và có ảnh hưởng sâu sắc đến nền YHCT của nhiều quốc gia như Nhật Bản, Việt Nam, Ấn Độ. Sự kết hợp YHCT với YHHĐ tại Trung Quốc là một trong những chủ trương chính của ngành y tế Trung Quốc. Trong đó các thầy thuốc Tây y được đào tạo thêm về YHCT bên cạnh những thầy thuốc chuyên khoa YHCT và các thầy thuốc YHCT được đào tạo thêm về YHHĐ, được công nhận một cách chính thức vào hệ thống y tế [8]. Năm 2014, theo số liệu của Cục quản lý Trung y dược quốc gia, Trung Quốc có 3009 bệnh viện YHCT, 2 học viện Trung y, 57 cơ sở nghiên cứu. 95% các bệnh viện ở Trung Quốc có khoa YHCT, ước tính điều trị trung bình 200 triệu bệnh nhân ngoại trú và 3 triệu bệnh nhân nội trú một năm. YHCT đã được hơn 120 quốc gia và khu vực trên thế giới chấp nhận và giành được vị trí hợp pháp ở nhiều quốc gia như Singapore, Malaysia, Indonesia...[8]. Ấn Độ là quốc gia có di sản giàu có về hệ thống YHCT chăm sóc sức khỏe từ nhiều thế kỷ. Hệ thống YHCT này đã tồn tại gần 7000 năm, bao gồm 2 hình thức sử dụng: chính thống và không chính thống. Hình thức YHCT chính thống của Ấn Độ được chính thức công nhận là Ayurveda, Yoga, Naturopathy, Unani, Siddha và Homeopathy, gọi tắt là AYUSH. Tại Ấn Độ, tỷ lệ người dân sử dụng YHCT cũng rất cao (70%). Nhật Bản cũng là một quốc gia có nền YHCT lâu đời và phát triển với lịch sử trên 1400 năm và được xem là nước có tỷ lệ người sử dụng YHCT cao nhất thế giới hiện nay [9].