Content text Lich su Viet Nam nang cao 1858 -1945.docx
1 LỊCH SỬ VIỆT NAM (Từ năm 1858 đến năm 1918) PHẦN NÂNG CAO I. Quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta (1858 - 1884). 1. Vào giữa thế kỷ XIX, Việt Nam đứng trước những thách thức gì ? Trước thách thức đó, thái độ và chính sách của nhà Nguyễn ra sao ? Nêu hậu quả của các chính sách đó. +Vào giữa thế kỷ XIX, Việt Nam đứng trước những thách thức lịch sử: -Sau những cuộc cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ. Các nước tư bản phương Tây đẩy mạnh xâm lược thuộc địa, tìm kiếm thị trường. Mục tiêu mà các nước tư bản phương Tây hướng tới là các nước ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, những nơi giàu tài nguyên thiên nhiên, đông dân, chế độ phong kiến đang giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng. -Nhiều nước châu Á đã bị xâm lược, Việt Nam cũng không tránh khỏi bị nhòm ngó và trở thành đối tượng xâm lược của tư bản phương Tây, đặc biệt là Pháp. +Thái độ và chính sách của nhà Nguyễn trước những thách thức trên: -Trước những thách thức lịch sử, Việt Nam đứng trước hai con đường lựa chọn: Hoặc cải cách canh tân đất nước nhằm thoát khỏi khủng hoảng, bảo vệ độc lập dân tộc hoặc tiếp tục duy trì chính sách bảo thủ và lạc hậu. -Về đối nội, nhà Nguyễn tiếp tục duy trì chính sách bảo thủ và lạc hậu, khước từ những đề nghị cải cách duy tân đất nước; về đối ngoại, thực hiện đường lối thiển cận sai lầm “bế quan toả cảng”, nhất là cấm và bài xích đạo Thiên chúa, đuổi giáo sĩ phương Tây. +Hậu quả: -Làm rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc, làm cho Việt Nam ngày càng bị cô lập và tạo điều kiện cho kẻ thù bên ngoài lợi dụng. -Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, khả năng phòng thủ đất nước bị giảm sút, quốc phòng yếu kém, ảnh hưởng trực tiếp đến việc chống lại sự xâm lược của các nước tư bản phương Tây. 2. Vì sao nhà Nguyễn kí kết với thực dân Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862)? Nêu nội dung cơ bản của Hiệp ước Nhâm Tuất và nhận xét về hiệp ước này. +Giữa lúc phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đang ngày càng phát triển, khiến quân Pháp vô cùng bối rối thì triều đình Huế kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất. Sở dĩ nhà Nguyễn kí kết hiệp ước Nhâm Tuất là vì: -Triều đình thiếu quyết tâm đánh giặc, khiếp sợ trước sức mạnh của quân Pháp. -Vì quyền lợi ích kỉ của dòng họ nhà Nguyễn. Triều đình không tin tưởng vào năng lực, sức mạnh của nhân dân, muốn sớm rảnh tay đối phó với phong trào đấu tranh của nông dân miền Bắc. +Nội dung cơ bản của Hiệp ước Nhâm Tuất: Triều đình Huế nhượng hẳn cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hoà) và đảo Côn Lôn; bồi thường chiến phí, mở ba của biển: Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho Pháp và Tây Ban Nha buôn bán. +Nhận xét: -Đây là hiệp ước cắt đất cầu hoà đầu tiên của triều đình Huế, đi ngược lại ý chí và nguyện vọng của nhân dân, vi phạm nghiêm trọng đến chủ quyền dân tộc. -Tạo điều kiện cho thực dân Pháp có cơ hội thực hiện dã tâm xâm lược toàn bộ nước ta. 3. Thái độ của thực dân Pháp trong hai lần đưa quân ra đánh Bắc Kỳ có gì khác nhau ? Tại sao lại có sự khác nhau đó? +Thực dân Pháp đưa quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất: Để thực hiện âm mưu mở rộng xâm lược, ngoài việc tung gián điệp để do thám tình hình miền Bắc, thực dân Pháp đã ngầm ủng hộ “Đuy – puy” gây rối: tự tiện buôn bán, ngang ngược đòi đóng quân trên bờ sông Hồng, cướp thuyền gạo của triều đình, bắt quan, lính và dân ta. -Lấy cớ giải quyết vụ “Đuy – puy” theo yêu cầu của triều đình Huế, thực dân Pháp ở Sài Gòn đã phái đại úy Gác-ni-ê đưa quân ra Bắc. -Như vậy, việc thực dân Pháp đưa quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873 chỉ là mưu đồ của một nhóm thực dân hiếu chiến, phiêu lưu. +Thực dân Pháp đưa quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ hai: -Việc thực dân Pháp đưa quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ hai năm 1882 trở thành đường lối chung của nhà nước tư sản Pháp với quyết tâm xâm lược toàn bộ Việt Nam. -Đầu những năm 80 của thế kỷ XIX, nước Pháp bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Nền kinh tế Pháp có những đòi hỏi ngày càng lớn về thị trường, nhân công và nguyên liệu. Bắc Kỳ là vùng đất có nhiều tài nguyên, nhất là than đá, là miếng mồi ngon không thể bỏ qua. 4. Nhận xét về thái độ, hành động của nhà Nguyễn và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược từ 1858 đến 1884. +Thái độ, hành động của nhà Nguyễn: - Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhà vua và đa số quan lại trong triều đình có tư tưởng sợ Pháp. Trong quá trình chống xâm lược, nhà Nguyễn từ bỏ con đường đấu tranh vũ trang truyền thống của dân tộc mà đi theo con đường thương lượng. Triều đình có tổ chức kháng chiến chống Pháp ngay từ đầu song đường lối kháng chiến nặng về phòng thủ, thiếu chủ động tấn công, có ảo tưởng với thực dân Pháp là thông qua việc thương thuyết để giữ nền độc lập và vì thế bạc nhược trước những đòi hỏi của thực dân Pháp. -Đối với nhân dân, triều đình vẫn giữ thái độ thù địch, không dám dựa vào dân, không phát động được cuộc chiến tranh nhân dân. Do sợ dân nên triều đình chống lại nhân dân, bỏ rơi, xa lánh cuộc chiến của nhân dân, thậm chí ngăn cản nhân dân chống Pháp, ra lệnh giải tán các đội nghĩa binh chống Pháp. -Triều đình không biết chớp lấy thời cơ để tấn công Pháp. Cơ hội rõ nhất vào năm 1960 để có thể đánh thắng thực dân Pháp và với 2 lần chiến thắng Cầu Giấy năm 1873 và 1882 cũng đã mở ra cơ hội để ta tấn công tiêu diệt địch, buộc chúng rút khỏi Bắc Kì, song Triều đình Huế lại ảo tưởng có thể thu hồi Hà Nội và các tỉnh Bắc Kì bằng con đường thương thuyết hoà bình. Điều đó đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp đánh lấn dần, kết hợp biện pháp quân sự với thủ đoạn chính trị để hoàn thành công cuộc xâm lược nước ta. Với điều ước Hác-măng 1883 và Pa-tơ-nôt 1884, Triều đình Huế đã chính thức đầu hàng và thừa nhận sự thống trị của Pháp trên toàn cõi Việt Nam. +Thái độ, hành động của nhân dân ta: -Nhân dân ta không chịu khuất phục, kiên quyết chống giặc. Ngay từ đầu, nhân dân ta đã sát cánh cùng quân đội triều đình chống Pháp xâm lược, thực hiện “vườn không nhà trống”, làm cho quân Pháp gặp nhiều khó khăn, bị cầm chân ở bán đảo Sơn Trà. -Khi Pháp đánh Gia Định, các đội dân binh, nghĩa binh chiến đấu dũng cảm, ngày đêm bám sát tiêu diệt địch, gây cho chúng nhiều khó khăn, tiêu biểu là nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu chiến Hi Vọng của quân Pháp trên sông Vàm Cỏ (12/1861). -Nhân dân Nam Kỳ bất chấp lệnh bãi binh của triều đình, vẫn kiên quyết đánh Pháp. Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông dùng văn thơ châm biếm bọn Việt gian bán nước. Tiêu biểu là hoạt động của nghĩa quân Trương Định ở Tân Hoà (Gò Công) đã mang đến cho nhân dân Nam Kỳ niềm tin tưởng, đồng thời khiến cho bè lũ cướp nước và bán nước phải khiếp sợ. -Khi ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ rơi vào tay Pháp, phong trào kháng chiến của nhân dân tiếp tục dâng cao. Một số sĩ phu yêu nước thực hiện phong trào “tị địa”, một số khác tiếp tục đấu tranh vũ trang chống Pháp bền bỉ, gây cho Pháp nhiều thiệt hại. -Ngay từ khi Pháp tấn công Hà Nội, quân dân Hà Nội đã chống trả quyết liệt, nhân dân bất hợp tác với giặc. Khi quân Pháp từ Hà Nội đánh lan ra, đi tới đấu chúng cũng bị quân dân ta chặn đánh quyết liệt, tiêu biểu là chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất (1873) và lần thứ hai (1883) đã làm nức lòng nhân dân cả nước, bồi đắp thêm ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc của nhân dân, đồng thời làm cho quân Pháp hoàng mang, dao động. 5. Lập bảng hệ thống các Hiệp ước mà triều đình Huế đã ký với thực dân Pháp từ năm 1862 đến 1884 theo yêu cầu: Hiệp ước Nội dung cơ bản Nhận xét Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862) Triều đình Huế nhượng hẳn cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hoà) và đảo Côn Lôn; bồi thường chiến phí, mở ba của biển: Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho Pháp và Tây Ban Nha buôn bán. Đây là hiệp ước cắt đất cầu hoà đầu tiên của triều đình Huế, đi ngược lại ý chí và nguyện vọng của nhân dân, vi phạm nghiêm trọng đến chủ quyền dân tộc, tạo điều kiện cho thực dân Pháp có cơ hội thực hiện dã tâm xâm lược toàn bộ nước ta. Hiệp ước Giáp Tuất (15/3/1974) Pháp rút quân khỏi Hà Nội và Bắc Kỳ; triều đình Nguyễn chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Pháp; công nhận Pháp có quyền đi lại, buôn bán, kiểm soát và điều tra tình hình ở Việt Nam. Nền ngoại giao nước ta lệ thuộc vào đường lối ngoại giao của nước Pháp. -Triều đình Huế thể hiện rõ sự ảo tưởng vào con đường thương thuyết và nhu nhược đối với thực dân Pháp. -Với Hiệp ước, đất đai bị mất nhiều hơn, chủ quyền dân tộc ngày càng bị vi phạm nghiêm trọng, nội trị, ngoại giao càng bị lệ thuộc. -Xác lập đặc quyền về kinh tế của tư bản Pháp trên khắp đất nước ta. Hiệp ước Hác - măng (25/8/1883) -Việt Nam được đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Nam Kỳ là xứ thuộc địa (mở rộng đến Bình Thuận), Bắc Kỳ (gồm Thanh – Nghệ -Tĩnh) là đất bảo hộ, Trung Kỳ giao cho Triều đình Huế quản lý và đại diện của Pháp ở Huế trực tiếp điều khiển các công việc ở Trung Kỳ. Mọi việc giao thiệp của Việt Nam với nước ngoài đều do Pháp nắm giữ. -Về quân sự: triều đình phải thừa nhận các huấn luyện viên và sĩ quan chỉ huy của Pháp, phải triệt hồi binh lính từ Bắc Kỳ về kinh đô Huế. Pháp được đóng quân ở những nơi xét thấy cần thiết ở Bắc Kỳ, được toàn quyền xử trí quân Cờ đen. -Về kinh tế: Pháp nắm và kiểm soát toàn bộ các nguồn lợi trong nước. -Hai hiệp ước đã đặt cơ sở lâu dài cho quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam, chia cắt Việt Nam thành 3 miền với 3 chế độ khác nhau -Nhà nước phong kiến Việt Nam với tư cách là nhà nước độc lập có chủ quyền đã sụp đổ. Nước Việt Nam hoàn toàn trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Hiệp ước Patơnốt (6/6/1884) Căn bản dựa trên Hiệp ước Hác măng, nhưng được sửa chữa một số điều để xoa dịu dư luận và mua chuộc thêm những phần tử phong kiến đầu hàng: trả lại cho triều đình Huế cai quản các tỉnh Bình Thuận, Thanh – Nghệ - Tỉnh như cũ. 6. Lập bảng so sánh thái độ của triều đình nhà Nguyễn và thái độ của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1885) theo yêu cầu: Nội dung Thái độ của triều đình nhà Nguyễn Thái độ của nhân dân Việc chuẩn bị -Lúc đầu triều đình có phòng bị: cử quan triều đình tổ chức chống giặc, xây dựng phòng tuyến tại Đà Nẵng, Đại đồn Chí Hòa ở Gia Định. -Về sau triều đình chỉ lo thương thuyết để chuộc lại các vùng đất đã mất. -Nhân dân tự động chuẩn bị nhân lực, tài lực cho cuộc kháng chiến. -Nhiều căn cứ chống Pháp được xây dựng ở Gia Định, Gò Công, Đồng Tháp, chiêu mộ hàng ngàn nghĩa quân. Chủ trương, hành động -Lúc đầu chủ trương chống Pháp, cử Nguyễn Tri Phương vào tổ chức chống Pháp ở Đà Nẵng, Gia Định, kêu gọi nhân dân chống Pháp, thực hiện “vườn không nhà trống”, bất hợp tác với giặc. -Về sau chủ trương hòa -Kiên quyết chống Pháp ngay từ đầu, phối hợp cùng với quân triều đình đào hào, xây thành đắp lũy, lập các đội dân binh hăng hái đánh Pháp. -Khi triều đình nhượng bộ rồi đầu hàng, nhân dân ta trong cả nước quyết tâm đánh Pháp đến
2 hoãn, thương lượng rồi đầu hàng hoàn toàn bằng việc kí kết các Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất (1874), Hác–măng (1883) và Patơnốt (1884). cùng, tự động đứng lên kháng chiến chống Pháp. -Phong trào kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta diễn ra liên tục, quyết liệt, tiêu biểu là hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, Trương Định, hai lần chiến thắng ở Cầu Giấy của nhân dân Bắc Kỳ. Biện pháp đấu tranh -Lúc đầu đấu tranh vũ trang. -Về sau tập trung đấu tranh chính trị thương thuyết. -Đấu tranh vũ trang là chủ yếu. -Ngoài ra còn có các hình thức đấu tranh khác: phong trào tị địa, đấu tranh bằng văn thơ. Kết quả -Lúc đầu gây cho Pháp nhiều khó khăn. -Về sau thi đi từ nhượng bộ rồi đầu hàng hoàn toàn, thừa nhận quyền đô hộ của thực dân Pháp đối với nước ta. -Làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, khiến chúng mất 26 năm mới chinh phục được nước ta. -Tuy thất bại nhưng thể hiện tinh thần yêu nước, đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc. 7. Phân tích trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp. - Trước hoạ xâm lăng, vì quyền lợi ích kỷ của dòng họ và bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh mới, nhà Nguyễn tiếp tục duy trì đường lối cai trị bảo thủ, khước từ những đề nghị cải cách duy tân của những người có tâm huyết như Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch vv làm cho tiềm lực đất nước ngày càng kiệt quệ, bỏ lỡ thời cơ cứu nguy nước ta thoát khỏi hoạ xâm lăng. - Ngay từ đầu, nhà vua và đa số quan lại trong triều đình có tư tưởng sợ Pháp. Trong quá trình chống xâm lược, nhà Nguyễn từ bỏ con đường đấu tranh vũ trang truyền thống của dân tộc mà đi theo con đường thương lượng. Triều đình có tổ chức kháng chiến chống Pháp ngay từ đầu song đường lối kháng chiến nặng về phòng thủ, thiếu chủ động tấn công, có ảo tưởng với thực dân Pháp là thông qua việc thương thuyết để giữ nền độc lập và vì thế bạc nhược trước những đòi hỏi của thực dân Pháp. -Đối với nhân dân, triều đình vẫn giữ thái độ thù địch, không dám dựa vào dân, không phát động được cuộc chiến tranh nhân dân. Do sợ dân nên triều đình chống lại nhân dân, bỏ rơi, xa lánh cuộc chiến của nhân dân, thậm chí ngăn cản nhân dân chống Pháp, ra lệnh giải tán các đội nghĩa binh chống Pháp. - Triều đình không biết chớp lấy thời cơ để tấn công Pháp. Cơ hội rõ nhất vào năm 1960 để có thể đánh thắng thực dân Pháp và với 2 lần chiến thắng Cầu Giấy năm 1873 và 1882 cũng đã mở ra cơ hội để ta tấn công tiêu diệt địch, buộc chúng rút khỏi Bắc Kì, song Triều đình Huế lại ảo tưởng có thể thu hồi Hà Nội và các tỉnh Bắc Kì bằng con đường thương thuyết hoà bình. Điều đó đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp đánh lấn dần, kết hợp biện pháp quân sự với thủ đoạn chính trị để hoàn thành công cuộc xâm lược nước ta. Với điều ước Hác-măng 1883 và Pa-tơ-nôt 1884, Triều đình Huế đã chính thức đầu hàng và thừa nhận sự thống trị của Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Vì vậy, hoạ mất nước có thể tránh được, tức là không tất yếu. Tuy nhiên, với chính sách và hành động của nhà Nguyễn, mất nước trở thành tất yếu. Trách nhiệm này hoàn toàn thuộc về nhà Nguyễn. 8. Phân tích những cơ hội mà Việt Nam có thể đánh thắng thực dân Pháp trong cuộc kháng chiến chống xâm lược từ năm 1858 đến 1884. -Trong thực tế, ở nửa sau thế kỷ XIX đã có những quốc gia giành thắng lợi trong việc đương đầu với cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây, giữ vững nền độc lập dân tộc như Nhật Bản tiến hành cuộc cải cách Duy tân Minh Trị và trở thành cường quốc tư bản hùng mạnh, đánh thắng đế quốc Nga; Xiêm (Thái Lan) tiến hành những cải cách và thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo; Êtiôpia kháng chiến chống xâm lược thắng lợi. -Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp, nước ta có nhiều cơ hội đánh bại ý chí xâm lược của Pháp, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Cơ hội rõ nhất là vào đầu năm 1860, nước Pháp bị sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Trung Quốc và Italia, vì phải chia sẽ lực lượng cho các chiến trường khác nên số quân còn lại ở Gia Định chỉ có khoảng 1000 tên, lại phải rải ra trên một tuyến dài. Trong khi đó, do có tư tưởng sợ địch, ngại địch của một số quan lại cao cấp nên triều đình Huế có những sai lầm trong chiến lược phòng thủ bị động, quân triều đình vẫn đóng trong phòng tuyến Chí Hoà mới được xây dựng trong tư thế “thủ hiểm”. Điều đó đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp đánh lan ra rồi lần lượt chiếm các tỉnh Nam Kỳ. -Từ năm 1870, tình hình nước Pháp có nhiều biến động: Chiến tranh Pháp – Phổ nổ ra, nước Pháp thất bại và suy yếu nghiêm trọng. Tiếp đó, Chính phủ tư sản Pháp lại phải đối phó với cuộc vùng dậy của giai cấp công nhân (công xã Pari) nên phải ban hành chính sách “co lại” đối với các nước thuộc địa. Tại chiến trường Việt Nam, thực dân Pháp hạn chế hoạt động trong việc củng cố các vùng đất đã chiếm ở Nam Kỳ. Với những điều kiện khách quan thuận lợi, có thể coi là một cơ hội để chấn chỉnh kinh tế, củng cố quốc phòng, tăng cường khả năng đối phó với thực dân Pháp. Tuy nhiên, triều đình Nguyễn vẫn bảo thủ, cố chấp, thi hành nhiều chính sách sai lầm, tiếp tục thương thuyết để chuộc lại những vùng đất đã mất; từ chối những đề nghị cải cách duy tân của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Phạm Phú Thứ vv Những đề nghị cải cách đó đã vạch ra một lối thóat cho đất nước, khôi phục lại các vùng đất đã mất, bảo vệ những vùng đất còn lại, đưa nước ta thoát khỏi họa xâm lăng. -Khi thực dân Pháp đánh ra Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873, quân dân ta đã giành thắng lợi lớn ở Cầu Giấy. Chiến thắng đó đã làm cho tinh thần giặc tan rã, ý chí của chúng bị lung lay, quân dân ta phấn khởi, tạo ra thời cơ để tiêu diệt giặc và đuổi chúng ra khởi Bắc Kỳ. Tuy nhiên, triều đình Nguyễn vẫn tiếp tục nuôi ảo tưởng thương thuyết để thu hồi Hà Nội và các tỉnh Bắc Kỳ. Thái độ đó của nhà Nguyễn đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp đánh lấn dần, kết hợp biện pháp quân sự với thủ đoạn chính trị để hoàn thành công cuộc xâm lược nước ta. -Như vậy, tư tưởng sợ và ngại Pháp, đường lối kháng chiến nặng về phòng thủ, thiếu chủ động tấn công, có ảo tưởng thông qua việc thương thuyết để giữ nền độc lập và bạc nhược trước những đòi hỏi của thực dân Pháp của nhà Nguyễn đã bỏ lỡ những cơ hội để đánh thắng thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập dân tộc. 9. Phân tích những nguyên nhân dẫn đến đất nước ta rơi vào tay thực dân Pháp ở cuối thế kỷ XIX. -Sau cuộc cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản Pháp đang trên đà phát triển mạnh mẽ, trong khi đó, chế độ phong kiến ở Việt Nam dưới triều Nguyễn bị khủng hoảng và suy yếu nghiêm trọng: +Kinh tế ngày càng sa sút, tài chính gặp nhiều khó khăn; mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra; khả năng phòng thủ đất nước bị giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp đến việc chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. +Nhà Nguyễn thực hiện đường lối đối ngoại thiển cận sai lầm “bế quan toả cảng”, nhất là cấm đạo và bài xích đạoThiên chúa, đuổi giáo sĩ phương Tây, làm rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc, làm cho Việt Nam ngày càng bị cô lập và tạo điều kiện cho kẻ thù bên ngoài, đặc biệt là Pháp lợi dụng. -Vì quyền lợi ích kỷ của dòng họ và bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh mới, nhà Nguyễn đã khước từ những đề nghị cải cách, duy tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ vv Đây là con đường cứu nước hữu hiệu nhất cuối thế kỷ XIX như Nhật Bản, Xiêm (Thái Lan) đã thực hiện thành công, thoát khỏi họa xâm lăng. -Trong quá trình chống xâm lược, nhà Nguyễn đã từ bỏ con đường đấu tranh vũ trang truyền thống, lựa chọn đường lối “thủ để hòa”; do có tư tưởng sợ địch, ngại địch nên thiếu quyết tâm chiến đấu và chiến thắng; không biết phát động cuộc kháng chiến toàn dân, phối hợp với nhân dân đánh giặc đến cùng; bỏ lỡ nhiều cơ hội có thể đánh thắng thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Thái độ cầu hòa, ảo tưởng vào con đường thương thuyết của nhà Nguyễn đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp từng bước hoàn thành công cuộc xâm lược Việt Nam. -Như vậy, việc đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược vào nửa sau thế kỷ XIX là tất yếu nhưng việc mất nước không phải là tất yếu. Tuy nhiên, những việc làm của nhà Nguyễn đã biến cái không tất yếu thành cái tất yếu. II. Trào lưu cải cách duy tân ở nửa cuối thế kỷ XIX. 1. Vì sao những đề nghị cải cách, duy tân ở nửa cuối thế kỷ XIX thất bại? Hầu hết những đề nghị cải cách, duy tân cuối thế kỷ XIX thất bại, không thực hiện được là do những nguyên nhân sau: -Đất nước kiệt quệ, điêu tàn về kinh tế do chiến tranh và sự cai trị của triều đình nhà Nguyễn, tình hình chính trị - xã hội không ổn định. -Sự tồn tại của ý thức hệ phong kiến quá lâu, quá sâu, khó có thể thay đổi trong một sớm một chiều. -Triều đình Nguyễn từ vua đến quan lại cố chấp, bảo thủ duy trì đường lối cai trị cũ, từ chối những đề nghị cải cách, duy tân vì quyền lợi ích kỷ của dòng họ và bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh mới. -Bản thân những đề nghị cải cách còn có những hạn chế, mang tính chất lẻ tẻ, rời rạt; một số đề nghị cải cách chưa xuất phát từ tình hình thực tế của đất nước, chưa động chạm tới những vấn đề cơ bản của thời đại là giải quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp xâm lược và giữa nông dân với địa chủ phong kiến. -Quyết tâm của triều đình, ý thức duy tân yếu ớt chưa đủ khả năng thắng tư tưởng bảo thủ là những nguyên nhân chủ yếu góp phần dẫn đến thất bại của trào lưu cải cách duy tân nửa cuối thế kỷ XIX. II. Phong trào Cần Vương (1885 -1896). 1. Nêu hoàn cảnh ra đời, nội dung và tác dụng của chiếu Cần vương? Vì sao phong trào Cần vương tập họp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia ? +Hoàn cảnh ra đời: -Nhà Nguyễn đã chính thức đầu hàng và thực dân Pháp cơ bản đã hoàn thành công cuộc xâm lược nước ta, bắt đầu xúc tiến thiết lập chế độ bảo hộ và bộ máy chính quyền thực dân trên đất nước ta. -Cuộc phản công kinh thành Huế (5/8/1885) của phe chủ chiến đứng đầu là Tôn Thất Thuyết bị thất bại. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Tại đây, ngày 13/7/1885, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương, kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước. +Nội dung: -Tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. -Lên án sự phản bội của một số quan lại, tính bất hợp pháp của triều đình Đồng Khánh do Pháp mới dựng lên. -Khích lệ văn thân sĩ phu và các tầng lớp nhân dân cả nước quyết tâm kháng chiến chống Pháp đến cùng.
3 +Tác dụng: -Chiếu Cần vương đã nhanh chóng thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. -Dấy lên một phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp – phong trào Cần vương. Phong trào diễn ra quyết liệt, rộng khắp, nhất là ở các tỉnh Bắc kỳ và Trung kì, kéo dài 12 năm, đến cuối thế kỷ XIX mới chấm dứt. +Vì sao phong trào Cần vương…. -Tư tưởng Cần vương là tư tưởng yêu nước, như mặt trời chiếu sáng tinh thần mỗi người. Mục đích của chiếu Cần vương là kêu gọi văn thân sĩ phu yêu nước và các tầng lớp nhân dân đứng lên giúp nhà vua yêu nước đánh thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc và khôi phục lại chế độ phong kiến có chủ quyền, nhưng mục đích lớn nhất và trước hết là độc lập dân tộc. -Trước đây, triều Nguyễn chưa một lần hiệu triệu nhân dân đứng lên chống Pháp cứu nước. Nay, ngọn cờ Cần vương đã gắn đựơc quyền lợi của triều đình với quyền lợi của các giai cấp và dân tộc trong một lợi ích chung là độc lập dân tộc và một động cơ chung là yêu nước, vì vậy phong trào Cần vương đã nhanh chóng tập họp được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia . .Phong trào Cần vương do các văn thân sĩ phu yêu nước lãnh đạo, đứng đầu là vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết; lực lượng tham gia bao gồm đông đảo nhân dân , đặc biệt là nông dân ,địa chủ,các dân tộc ít người; phong trào diễn ra sôi nổi, rầm rộ trên địa bàn rộng lớn, từ đồng bằng, ven biển lên đến miền núi, nhất là ở các tỉnh ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. 4.. Chứng minh (tại sao) cuộc khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX. -Thời gian kéo dài nhất hơn 10 năm (1885 – 1896). -Địa bàn hoạt động rộng khắp bốn tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình; xây dựng nhiều căn cứ, trung tâm là căn cứ Vụ Quang (Hương Khê, Hà Tĩnh), tạo thuận lợi cho nghĩa quân hoạt động. -Tổ chức chặt chẽ hơn các cuộc khởi nghĩa khác: nghĩa quân được chia thành 15 quân thứ, giữa đại bản doanh và các quân thứ thường xuyên liên lạc đảm bảo sự chỉ huy thống nhất. -Ngoài vũ khí tự trang bị, nghĩa quân đã chế tạo được súng trường theo kiểu Pháp và được nhân dân hết lòng ủng hộ, giúp đỡ. -Phương thức hoạt động và kết quả: tiến hành chiến tranh du kích với hình thức phong phú, linh hoạt, sáng tạo. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã lập được nhiều chiến công vang dội như trận tập kích nhà lao Hà Tĩnh 1892, trận Vụ Quang (1894) và gây cho Pháp những tổn thất nặng nề. 3. Hăy so sánh điểm giống nhau và khác nhau của các cuộc khởi nghĩa chủ yếu trong phong trào Cần vương? +Giống nhau: Cả ba cuộc khởi nghĩa đều do các sĩ phu, văn thân yêu nước lănh đạo, hưởng ứng chiếu Cần vương của Vua Hàm Nghi nhằm mục đích giúp nhà vua yêu nước đảnh đuổi thực dân Pháp, khôi phục lại chế độ phong kiến có chủ quyền. +Khác nhau: *Khởi nghĩa Ba Đình (1886- 1887): Căn cứ nằm trên vị trí chiến lược án ngữ đường giao thông từ Bắc vào Nam; có công sự kiên cố; sử dụng lối đánh chiến tuyến cố định, gây cho Pháp nhiều thiệt hại. *Khởi nghĩa Băi Sậy (1883 – 1892): Không có công sự nổi như ở Ba Đình mà có các cạm bẫy ngầm; nổi bật là chiến thuật du kích, ẩn hiện bất ngờ; được dân chúng ủng hộ tích cực nên phong trào tồn tại giữa vùng đồng bằng. Thực dân Pháp phải dùng thủ đoạn “ tát nước cạn để bắt cá “ nên phong trào mới bị dập tắt *Khởi nghĩa Hương Khê (1885 – 1896 ): Là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhất; trình độ tổ chức cao (có tới 15 quân thứ ), đúc được súng trường kiểu Pháp; địa bàn rộng gồm bốn tỉnh, huy động đến mức cao sự ủng hộ và tham gia của nhân dân, tồn tại lâu dài hơn 10 năm, lập được những chiến công vang dội:Tập kích nhà lao Hà Tĩnh 1892, trận Vụ Quang (1894) làm cho thực dân Pháp lo ngại và bị tổn thất nặng nề. 4 5. Nêu đặc điểm (nhận xét) của phong trào vũ trang chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX. Sau khi triều đình nhà Nguyễn chính thức đầu hàng và thực dân Pháp hoàn thành công cuộc xâm lược Việt Nam với Hiệp ước Patơnốt (1884), phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta tiếp tục nổ ra mạnh mẽ, tiêu biểu là phong trào Cần vương do các văn thân sĩ phu yêu nước lãnh đạo. -Quy mô: Phong trào nổ ra khắp Bắc kì và Trung kì, rất quyết liệt, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa lớn như khởi nghĩa Bãi sậy, khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Hương Khê, khởi nghĩa Yên Thế. -Lực lượng tham gia: các văn thân sĩ phu yêu nước, địa chủ và đông đảo nông dân. -Hình thức và phương pháp đấu tranh: khởi nghĩa vũ trang. -Tính chất, mục đích: Là phong trào yêu nước chống thực dân Pháp theo khuynh hướng, ý thức hệ phong kiến; là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mang tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, vì mục tiêu là đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc và khôi phục lại chế độ phong kiến có chủ quyền. -Phong trào đã gây cho Pháp nhiều tổn thất, làm chậm quá trình bình định và thiết lập bộ máy cai trị của thực dân Pháp nhưng cuối cùng bị đàn áp và thất bại, vì thiếu hẳn một giai cấp tiên tiến lãnh đạo, khả năng lãnh đạo và tổ chức của các văn thân sĩ phu còn hạn chế, con đường cứu nước theo ngọn cờ phong kiến không đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử. -Phong trào đã tiếp nối truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta. Là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn và tạo tiền đề cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản được hình thành vào những năm đầu của thế kỷ XX. 6. Nhận xét về phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX ở hai giai đoạn phát triển. Qua đó, chứng minh ý kiến: : “Cần vương chỉ là danh nghĩa, tính chất yêu nước chống Pháp là chủ yếu”. a-Nhận xét về phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX ở hai giai đoạn phát triển: +Giai đoạn (1885-1888: -Mở đầu là cuộc phản công kinh thành Huế đêm mồng 4 rạng sáng ngày 5/7/1885 của phe chủ chiến đứng đàu là Tôn Thất Thuyết và việc Tôn thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi ban chiếu Cần vương (13/7/1885) kêu gọi văn thân sĩ phu, nhân dân đứng lên giúp vua, cứu nước. -Phong trào Cần vương do các văn thân sĩ phu yêu nước lãnh đạo, đứng đầu là vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết; lực lượng tham gia bao gồm đông đảo nhân dân, đặc biệt là nông dân; phong trào diễn ra sôi nổi, rầm rộ trên địa bàn rộng lớn, từ đồng bằng, ven biển lên đến miền núi, nhất là ở các tỉnh ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. +Giai đoạn (1888-1896): -Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, Tôn Thất Thuyết sang Trung Quốc cầu viện, phong trào không vì thế mà tan rã, trái lại vẫn tiếp tục phát triển, quy tụ thành những cuộc khởi nghĩa lớn, có quy mô và trình độ tổ chức cao hơn giai đoạn trước. -Tiêu biểu: Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Hùng Lĩnh, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo. b- Chứng minh ý kiến: “Cần vương chỉ là danh nghĩa, tính chất yêu nước chống Pháp là chủ yếu”: -Mục đích của phong trào là đánh đuổi thực dân Pháp để khôi phục lại nhà nước phong kiến có chủ quyền đã sụp đổ (trung quân – ái quốc), nhưng mục đích lớn nhất trước hết là đánh giặc cứu nước, đó là yêu cầu chung của dân tộc. -Chính mục đích trên đã chi phối phong trào, trong thực tế dù có vua Hàm Nghi hay khi vua Hàm Nghi bị bắt phong trào vẫn phát triển với mục đích đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc. Điều đó chứng tỏ “Cần vương chỉ là danh nghĩa, tính chất yêu nước chống Pháp là chủ yếu”. 7. Hãy so sánh phong trào Cần vương (1885-1896) với khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913) theo yêu cầu: Nội dung Phong trào Cần vương Khởi nghĩa Yên Thế Lãnh đạo Vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết và văn thân, sĩ phu yêu nước. Nông dân, đứng đầu là Đề Nắm, Đề Thám (Hoàng Hoa Thám). Lực lượng tham gia Văn thân, sĩ phu yêu nước, địa chủ, nông dân, các dân tộc ít người. Nông dân, các dân tộc ít người. Mục đích Đánh đổ thực dân Pháp, giúp vua cứu nước, khôi phục lại chế độ phong kiến có chủ quyền Chống lại chính sách cướp bóc, bình định của thực dân Pháp, bảo vệ cuộc sống của người dân Thời gian 10 năm (1885-1896) 30 năm (1884-1913) Quy mô Phong trào Cần Vương diễn ra rộng khắp Trung Kỳ, Bắc Kỳ từ 1885 – 1888, đến giai đoạn 1888- 1896 thì qui tụ thành các cuộc khởi nghĩa lớn như cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê. Khởi nghĩa Yên Thế diễn ra chủ yếu ở Yên Thế. Nghĩa quân đã mở rộng hoạt động sang các tỉnh Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Thái Nguyên.... Phương thức đấu tranh Khởi nghĩa vũ trang Khởi nghĩa vũ trang nhưng có giai đoạn hoà hoãn, có giai đoạn tác chiến
4 8. Tại sao nói phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX thực chất là phong trào yêu nước chống Pháp giành độc lập của nhân dân ta ? -Phong trào Cần vương là sự tiếp tục cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta, được mở đầu bằng cuộc phản công kinh thành Huế ngày 5/7/1885 và việc vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương kêu gọi các tầng lớp nhân dân đứng lên chống Pháp. -Tư tưởng Cần vương là tư tưởng yêu nước, như mặt trời chiếu sáng tinh thần của mỗi người. Từ khi ban chiếu Cần vương đã thổi bùng lên ngọn lửa chống Pháp sôi nổi trên cả nước. -Mục đích của phong trào là đánh đuổi thực dân Pháp để khôi phục lại nhà nước phong kiến có chủ quyền đã sụp đổ (trung quân – ái quốc), nhưng mục đích lớn nhất trước hết là đánh giặc cứu nước, đó là yêu cầu chung của dân tộc. -Chính mục đích trên đã chi phối phong trào, khi vua Hàm Nghi bị bắt (1888) và không chịu sự chỉ đạo của triều đình nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển quyết liệt, quy tụ thành những cuộc khởi nghĩa lớn như khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Ba Đình và đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Hương Khê. -Hưởng ứng chiếu Cần vương trước hết và lãnh đạo phong trào là các văn thân sĩ phu yêu nước, căm ghét, uất hận trước thái độ cầu hoà, đầu hàng của triều đình và sự xâm lược của thực dân Pháp. Họ có chung nổi đau mất nước với quần chúng nên đã tự nguyện đứng về phía nhân dân chống Pháp. -Phong trào Cần vương đã tập họp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia: văn thân sĩ phu yêu nước, địa chủ, nông dân, các dân tộc ít người, những tù trưởng miền núi. Lợi ích của các giai cấp đối lập được điều hoà và gắn bó lại trong một lợi ích chung là chống Pháp giành độc lập và động cơ chung là chủ nghĩa yêu nước. 10. Mối quan hệ giữa chuyển biến kinh tế và xã hội ở Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (đầu thế kỷ XX): -Sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế dẫn đến sự ra đời các tầng lớp, giai cấp mới: Giai cấp công nhân, tầng lớp tư sản và tiểu tư sản, đặc biệt có một bộ phận sĩ phu với những hoạt động kinh tế mới; đồng thời làm cho sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội trở nên rõ rệt hơn. -Các giai cấp, tầng lớp mới ra đời làm cho nền kinh tế Việt Nam có sự thay đổi. Đó là hình thành kiểu kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa bên cạnh nền kinh tế phong kiến vẫn tồn tại. -Sự thay đổi về kinh tế - xã hội đã tạo nên một lớp người có nhận thức và hành động mới, xuất hiện tư tưởng cứu nước mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản. VI. Phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX. 1. Nhận xét phong trào yêu nước – cách mạng ở nước ta đầu thế kỷ XX. +Phan Bội Châu và xu hướng bạo động: -Phong trào yêu nước theo xu hướng bạo động….mang tính chất dân chủ tư sản, thể hiện tinh thần yêu nước, gắn cứu nước với đấu tranh vũ trang, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến lên văn minh như các nước tư bản khác. -Tuy nhiên, Phan Bội Châu và sĩ phu yêu nước không nhận ra được bản chất của chủ nghĩa đế quốc nên Pháp đã cấu kết với Nhật làm cho phong trào bị thất bại. +Phan Chu Trinh và xu hướng cải cách. -Phong trào yêu nước theo xu hướng cải cách….mang tính chất dân chủ tư sản, thể hiện tinh thần yêu nước, gắn cứu nước với cải cách kinh tế, văn hóa – xã hội, đưa đất nước tiến lên văn minh như các nước tư bản khác. -Tuy nhiên, Phan Châu Trinh và sĩ phu yêu nước không nhận thức được rằng kẻ áp bức dân tộc ta là thực dân Pháp luôn ngăn cản sự thức tỉnh của nhân dân ta. Do đó, chủ trương cứu nước của Phan Châu Trinh khó thực hiện được. 2. Phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa hai xu hướng bạo động và cải cách đầu thế kỷ XX. +Giống nhau: -Đều là những phong trào theo xu hướng cứu nước mới: dân chủ tư sản. -Đều thống nhất ở mục đích cách mạng, gắn liền nước với dân, kết hợp cứu nước với duy tân, giành độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, với mong muốn đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. +Khác nhau: -Chủ trương của Phan Bội Châu theo xu hướng bạo động vũ trang, nhấn mạnh đến vấn đề đánh đổ thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, coi đó là điều kiện tiên quyết để duy tân phát triển đất nước. -Chủ trương của Phan Chu Trinh theo xu hướng cải cách, nhấn mạnh đến vấn đề đánh đổ chế độ phong kiến, cải cách duy tân đất nước, coi đó là điều kiện để tiến tới độc lập dân tộc. -Cả hai xu hướng đều có tác dụng mở ra con đường cứu nước mới, mang tính cách mạng, đặt cơ sở nền tảng cho phong trào dân tộc dân chủ ở giai đoạn sau. Hai xu hướng này không đối lập nhau, cần phải kết hợp và hỗ trợ nhau để thực hiện mục đích cứu nước, cứu dân. 3. Trình bày những nét chính về phong trào Đông Du và phong trào Duy tân đầu thế kỷ XX. Từ đó, hãy nêu những điểm giống và khác nhau giữa hai phong trào này. +Phong trào Đông du: -Tháng 5/ 1904, Phan Bội Châu cùng với các văn thân sĩ phu yêu nước như Tăng Bạt Hổ, Đặng Thái Thân, Cường Để vv thành lập Hội Duy Tân nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, thiết lập một chính thể quân chủ lập hiến ở Việt Nam. -Hội Duy tân tổ chức phong trào Đông Du (1905-1908). Phong trào đã vận động được 200 thanh niên sang học tập tại Nhật Bản để chuẩn bị lực lượng chống Pháp sau này. Trước sự phát triển của phong trào, tháng 9/1908, Pháp đã thương lượng với Nhật Bản ra lệnh giải tán các tổ chức chống Pháp trên đất Nhật và trục xuất số du học sinh Việt Nam. Phong trào Đông Du thất bại. +Phong trào Duy tân: Từ năm 1906, Phan Châu Trinh và nhóm sĩ phu tiến bộ như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Ngô Đức Kế phát động cuộc vận động Duy tân ở Trung Kỳ. Đây là cuộc vận động yêu nước có nội dung chủ yếu là cải cách văn hóa – xã hội, gắn liền với việc giáo dục lòng yêu nước, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi sự thống trị ngoại xâm. Cuộc vận động diễn ra với nhiều hình thức phong phú: -Cổ động mở mang công thương nghiệp, thành lập các công ty và hiệu buôn hàng nội hoá, chú ý phát triển nghề làm vườn, nghề thủ công. -Mở trường học dạy theo lối mới, dạy chữ Quốc ngữ, dạy các môn học mới, diễn thuyết các vấn đề xã hội. -Phê phán bọn quan lại, cổ vũ theo cái mới, mở cuộc vận động cải cách trang phục và lối sống theo kiểu “Âu hóa”. -Phong trào Duy tân đã đi sâu vào quần chúng, làm bùng lên phong trào chống đi phu, đòi giảm thuế ở Trung Kỳ năm 1908. Phong trào đang phát triển sâu rộng thì bị thực dân Pháp đàn áp và thất bại năm 1908. +Điểm giống và khác nhau giữa hai phong trào: *Giống nhau: -Cả hai phong trào đều mang tính chất dân chủ tư sản, do các văn thân sĩ phu yêu nước tiến bộ lãnh đạo, tập hợp một bộ phận phong kiến và đông đảo nhân dân tham gia. -Hai phong trào đã giáo dục tinh thần yêu nước, nhằm mục tiêu giành độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. *Khác nhau: -Về mục tiêu và kẻ thù trước mắt: Phan Bội Châu với phong trào Đông Du xác định thực dân Pháp là kẻ thù cần đánh đổ để giành độc lập dân tộc và khôi phục chế độ phong kiến theo quân chủ lập hiến. Phan Châu Trinh với phong trào Duy tân lại coi phong kiến là kẻ thù trước mắt cần đánh đổ để canh tân đất nước, tiến tới độc lập dân tộc. -Về phương pháp và hình thức đấu tranh: Phan Bội Châu với phong trào Đông Du theo con đường bạo động vũ trang, dựa vào sự giúp đỡ của Nhật Bản để đánh Pháp. Phan Châu Trinh với phong trào Duy tân phản đối bạo động, tiến hành cải cách, canh tân đất nước rồi mới đánh Pháp. 4. So sánh hoạt động cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh theo yêu cầu: Nội dung Phan Bội Châu Phan Chu Trinh Khuynh hướng cứu nước Dân chủ tư sản Dân chủ tư sản Chủ trương, phương pháp Bạo động vũ trang, dựa vào Nhật Bản để chống Pháp, giành độc lập dân tộc, thiết lập một thể chế chính trị mới ở Việt Nam, coi đó là điều kiện để cải cách, canh tân xã hội. Cải cách kinh tế, văn hoá - xã hội nhằm nâng cao dân trí, dân quyền; yêu cầu Pháp sửa đổi chính sách cai trị ở Việt Nam, coi đó là điều kiện để tiến tới giành độc lập dân tộc. Hoạt động Thành lập Hội Duy tân, tổ chức phong trào Đông du, đưa thanh niên đi du học ở Nhật Bản, chuẩn bị lực lượng chống Pháp; thành lập Việt Nam Quang phục hội để đưa quân về nước khởi nghĩa… Mở cuộc vận động Duy tân ở Trung Kỳ: mở trường học dạy theo lối mới, thành lập nhiều công ty và hiệu buôn hàng nội hoá, cải cách trang phục và lối sống… Tác dụng Tạo nên cuộc vận động dân tộc, dân chủ sôi nổi những năm đầu thế kỷ XX Tạo nên cuộc vận động dân tộc, dân chủ sôi nổi những năm đầu thế kỷ XX Nhận xét chung Xuất phát từ tinh thần yêu nước, gắn cứu nước với cuộc đấu tranh vũ trang, giành độc lập dân tộc Xuất phát từ tinh thần yêu nước, gắn cứu nước với việc duy tân, cải cách làm cho đất nước phát triển. 5. Từ sự thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX và phong trào cách mạng đầu thế kỷ XX, có thể rút ra những bài học gì? -Con đường cứu nước theo ngọn cờ phong kiến và tư sản không thể là lối thoát cho dân tộc ta, không đáp ứng được yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam. -Phải có một giai cấp, một tổ chức tiên tiến có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng: tuyên truyền, đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo quần chúng làm cách mạng. -Phải có một đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam đi đúng hướng và giành thắng lợi. 6. Nêu những nét mới (đặc điểm) của phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX so với phong trào yêu nước cuối thế kỷ XI – Phong trào Cần vương). Do tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam xuất hiện những giai cấp và tầng lớp mới (tư sản, tiểu tư sản, công nhân) và những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản, các sĩ phu yêu nước tiến bộ Việt Nam có nhu cầu hướng theo cái mới, cứu nước và cải cách xã hội theo tư duy cách mạng. Một phong trào yêu nước và cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản xuất hiện ở nước ta vào đầu thế kỷ XX. -Lãnh đạo phong trào là những nhà nho yêu nước tiến bộ chuyển biến theo tư tưởng dân chủ tư sản. Tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. -Chủ trương, đường lối: Thoát ra khỏi phạm trù và cách thức cứu nước theo tư tưởng phong kiến, đó là phong trào Cần Vương với mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc và khôi phục chế độ phong kiến. Cuộc vận động giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX đi theo khuynh hướng dân chủ tư sản với mục tiêu giành độc lập dân tộc, gắn giải phóng dân tộc với cải cách, xây dựng xã hội tiến bộ, đưa nước ta tiến lên văn minh như các nước tư bản khác. -Lực lượng tham gia phong trào đông đảo với nhiều tầng lớp xã hội như văn thân, sĩ phu yêu nước tiến bộ, nông dân, binh lính; có sự tham gia của các giai cấp, tầng lớp mới như công nhân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. -Biện pháp đấu tranh: Không chỉ hạn chế trong phương pháp đấu tranh vũ trang như trước đây mà còn kết hợp với đấu tranh chính trị, ngoại giao, tiến hành một phong trào cải cách sâu rộng trong đông đảo quần chúng như phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Duy tân .. -Phong trào tuy thất bại nhưng đã đạt được những bước tiến về trình độ tổ chức, cách thức hoạt động và đấu tranh với quy mô rộng lớn, vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, làm thức tỉnh tinh thần dân tộc, ý thức tự lực tự cường, dọn đường và tạo điều kiện cho sự xuất hiện một khuynh hướng đấu tranh mới – khuynh hướng vô sản. 7. Trình bày mục đích, hình thức và nội dung hoạt động của các phong trào yêu nước tiêu biểu ở nước ta đầu thế kỷ XX theo yêu cầu: Các phong trào Mục đích Hình thức và nội dung hoạt động Đông du (1905 – 1908) Dựa vào sự giúp đở của Nhật để đào tạo nhân tài, lực lượng, chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc. -Đưa học sinh sang du học ở Nhật Bản. -Viết sách báo tuyên truyền, cổ động yêu nước. Đông Kinh nghĩa thục 1907 Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao lòng yêu nước, truyền bá những hiểu biết về một nền học thuật mới và nếp sống văn minh tiến bộ, phối hợp hành động với phong trào Đông du và phong trào Duy tân đang phát triển; góp phần làm cho đất nước thoát khỏi lạc hậu và trở thành một quốc gia độc lập. -Tổ chức giảng dạy gồm các môn như Lịch sử, Địa lý, Cách trí, Vệ sinh, Toán pháp vv -Tổ chức những buổi diễn thuyết, bình văn để cổ động học chữ Quốc ngữ, hô hào lập hội buôn, chống việc học và thi cử theo lối cũ, Cuộc vận động Duy tân (1906 – 1908) Nâng cao dân trí, dân quyền, vạch trần chế độ vua quan phong kiến thối nát và yêu cầu Pháp sửa đổi chính sách cai trị để giúp cho nhân dân Việt Nam từng bước tiến lên văn minh và giành độc lập. Cổ động mở mang công thương nghiệp, thành lập các công ty và hiệu buôn hàng nội hoá; mở trường học dạy chương trình với nội dung mới, dạy chữ Quốc ngữ, diễn thuyết các vấn đề xã hội, phê phán bọn quan lại, cổ vũ theo cái mới, cải cách trang phục và lối sống vv 8. Lập bảng so sánh phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX và phong trào cách mạng yêu nước đầu thế kỷ XX ở Việt Nam. Nội dung Phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX Phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX Lãnh đạo Văn thân, sĩ phu yêu nước Những nhà nho yêu nước tiến bộ chuyển biến theo tư tưởng dân chủ tư sản. Mục tiêu-tính chất Đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, khôi phục lại chế độ phong kiến có chủ quyền. Phong trào theo khuynh hướng, ý thức hệ phong kiến. Đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, gắn độc lập dân tộc với việc xây dựng một xã hội tiến bộ, đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Phong trào đi theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Lực lượng tham gia Văn thân, sĩ phu yêu nước, địa chủ, nông dân. Sĩ phu yêu nước tiến bộ, nông dân, công nhân, tư sản, tiểu tư sản, binh lính… Hình thức đấu tranh Chỉ khởi nghĩa vũ trang Phong phú, đa dạng: Bạo động vũ trang, cải cách, mở trường, tuyên truyền, lập hội vv Kết quả, ý nghĩa -Gây cho Pháp nhiều tổn thất nhưng cuối cùng bị đàn áp và thất bại. Làm chậm quá trình bình định và thiết lập bộ máy cai trị của Pháp. -Tiếp nối truyền thống yêu nước, là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn cho sự ra đời của trào lưu dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX. -Tuy thất bại nhưng đã dấy lên phong trào yêu nước theo khuynh hướng mới, mang tính cách mạng, có những đóng góp nổi bật về văn hoá. -Thức tỉnh lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, dọn đường và tạo điều kiện cho sự xuất hiện một khuynh hướng đấu tranh mới.