Content text 1725607478-9. Luận cứ bào chữa tội lạm quyền trong thi hành công vụ.docx
BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA ÔNG T.V.T VÀ N.Đ.S (TRONG VỤ ÁN LẠM QUYỀN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ) Kính thưa Hội Đồng Xét Xử! (HĐXX) Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát và Luật sư đồng nghiệp cùng các Quý vị có mặt trong phiên tòa hình sự sơ thẩm hôm nay! Chúng tôi là Luật sư N.M.L, N.T.T – Công ty Luật D – Thuộc Đoàn luật sư H. Được sự chấp thuận của TAND tỉnh B và đơn mời luật sư của ông T.V.T. Chúng Tôi có mặt trong phiên tòa hôm nay với tư cách là người bào chữa cho ông T.V.T bị VKSND tỉnh B truy tố về tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”. Kính thưa HĐXX ! Qua trao đổi làm việc với bị cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ án và phần thẩm vấn, xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay. Chúng tôi xin trình bày nội dung bản luận cứ bào chữa như sau: 1. Cáo trạng số 02/KSĐT-KTCV ngày 25/4/2016 của VKSND tỉnh B đưa ra kết luận: “Trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2009, UBND huyện V có 04 quyết định về việc giao đất cho nhân dân thôn Y, xã N, huyện V, tỉnh B. Quá trình thực hiện các quyết định trên, T.V.T – Trưởng thôn và ông N.Đ.S – Phó thôn kiêm kế toán thôn Y đã vượt quá quyền hạn được giao: tự nâng giá bồi thường giải phóng mặt bằng cao hơn so với giá ghi trong quyết định để chi trả cho các hộ dân bị mất đất; nâng giá đất cao hơn so với giá đất trong 04 quyết định; tự ý chia tách 35 lô đất thành 37 lô đất; lấy tên các hộ dân trong thôn làm đơn xin cấp đất để được giao đất gây thiệt hại cho những người dân mua đất 1.116.660.000 đồng (một tỷ, một trăm mười sáu triệu, sáu trăm sáu mươi nghìn đồng)”. Liên quan đến nội dung Cáo trạng nêu trên, chúng tôi có ý kiến phản biện lại như sau: Thứ nhất: Đối với kết luận “ông T.V.T nâng giá đất cao hơn so với giá đất trong 04 quyết định của UBND huyện V”. Tại bút lục số 1527, anh P.V.M nêu: “UBND xã N đều niêm yết công khai tất cả các quyết định về việc thu hồi đất và các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và mức giá giao đất ở cho nhân dân thôn Y, tại nơi công cộng như: Trụ sở UBND xã N, Nhà Văn hóa thôn Y, yêu cầu thông báo trên hệ thống loa truyền thanh của xã, thôn”. Như vậy, toàn thể nhân dân thôn Y đều biết các đơn giá Nhà nước quy định chính xác là bao nhiêu.
Theo các lời khai của anh N.Đ.S thì: “Quyết định 179 năm 2005 thôn Y được giao 30 lô đất tại khu vực T. Tại quyết định giao thu thời điểm đó là mỗi lô đất = 100m2 thu = 10.000.000 đồng. Ngoài ra Tập thể Ban lãnh đạo thôn còn họp hội nghị quân dân chính, họp hội nghị dân các hộ có ruộng và các hộ có đơn đăng ký mua đất và thông báo về quyết định giao đất, quyết định đền bù hỗ trợ cho các hộ và bàn giá thu đóng góp và tự nguyện đóng góp ở địa phương cho các hộ dân cùng tham gia và thống nhất. Sau khi họp bàn cụ thể và thông qua các quyết định đền bù, hỗ trợ và giá sàn của Huyện, hội nghị đã thống nhất và nhất trí ngoài giá sàn của nhà nước thu 10 triệu đồng/100m2 thôn thu phần đóng góp góp xây dựng cơ sở hạ tầng…” (Bút lục 1566) “Quyết định 814 năm 2006 thôn Y được giao 36 lô đất cho 36 hộ dân tại 2 vị trí, khu vực khác nhau (H.D – G.Đ). Ngoài quyết định ra, tập thể ban lãnh đạo thôn cũng đã tổ chức họp với các hộ dân trong thôn để thông báo giá đất theo quyết định, giá đền bù, hỗ trợ của nhà nước và tập thể. Sau khi các hộ thống nhất được giá sàn và giá đền bù hỗ trợ sang phần bàn giá bán tại 2 khu vực và phần thu tự nguyện đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở thôn các hộ cùng hội nghị thống nhất…” (Bút lục 1567, 1568) “Quyết định 1194 năm 2008 thôn Y được giao 30 lô đất tại Khu C – Vành T. Tại thời điểm năm 2006 trong quyết định giao thu là 8.000.000 đồng/100m2. Ngoài ra thôn có họp bàn với các hộ dân thông báo giá đất, giá đền bù, hỗ trợ của nhà nước và giá thu quy định của tập thể, thu đóng góp xây dựng thôn, cơ sở hạ tầng thôn với các hộ dân. Sau khi họp hội nghị thống nhất cụ thể như sau: Nhất trí giá đất 8.000.000 đồng/100m2 và giá đền bù hỗ trợ, cũng như phần thu đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng thôn và thống nhất bình giá đất ngoài thực địa thành các mốc thu…” (Bút lục 1567) “Quyết định 278 năm 2009 thôn Y được giao 35 lô đất cho 35 hộ dân trong thôn tại 2 vị trí khu vực khác nhau. Thời điểm năm 2009 trong quyết định giao thu là 13.000.000 đồng/1 lô = 100m2 cả 02 vị trí đều thu như vậy. Sau khi có quyết định, tập thể ban lãnh đạo thôn cũng đã tổ chức họp và họp với các hộ có ruộng và các hộ đăng ký mua đất để thông qua quyết định phương án đền bù, hỗ trợ của nhà nước cũng như tập thể…Như vậy là giá sàn của Nhà nước thu là 13.000.000 đồng/1 lô/100m2, thôn sẽ thu thêm phần đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng thôn là 12.000.000 đồng (Tổng cả 2 phần giá sàn và thu đóng góp là = 25.000.000/1 lô/100m2 đối với giá cao) còn các hộ ưu tiên là tổng = 22.000.000 đồng/1 lô/100m2.Việc đặt giá thu là do tập thể ban lãnh đạo thôn cùng với các hộ dân trong thôn đã họp và thống nhất. Còn việc giao đất cho các hộ là ban lãnh đạo thôn làm theo sự ủy quyền của chủ tịch UBND xã.” (Bút lục 1568, 1569). Trong tất cả các cuộc họp giữa Ban lãnh đạo thôn và tập thể nhân dân thôn Y khi thông qua 04 Quyết định của UBND huyện V đều phân biệt rõ: số tiền người dân phải đóng
theo quyết định của UBND là bao nhiêu và số tiền mà người dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng là bao nhiêu. Hơn nữa, trong tất cả các “Phương án thu các quyết định giãn dân thôn Y năm 2005 – Quyết định 179 (bút lục 1999), năm 2006 - Quyết định 1194 (bút lục 1997), năm 2008 – Quyết định 814 (bút lục 1991), năm 2009 – quyết định 278 (bút lục 1998)” đều phân định rõ: “Giá sàn quy định” và nhân dân “Tự nguyện đóng góp”. Trong các phiếu thu cũng ghi số tiền đóng góp xây dựng thôn là bao nhiêu, cụ thể: “T.V.Th – Đóng góp xây dựng thôn = 16.000.000 đồng (bút lục 27); P.T.K – Đóng góp xây dựng thôn = 14.000.000 đồng (bút lục 10A); T.T.Y – Đóng góp xây dựng thôn = 12.000.000 đồng (bút lục 05 – Ngày 16 tháng 2 năm 2007); P.V.T - Đóng góp xây dựng thôn = 10.000.000 đồng (bút lục 06); T.T.X – Đóng góp xây dựng thôn = 9.000.000 đồng (bút lục 13); T.V.H – Đóng góp xây dựng thôn = 8.000.000 đồng (Bút lục 05 – Ngày 10 tháng 11 năm 206); T.V.H – Đóng góp xây dựng thôn = 77.560.000 đồng (bút lục 21)”. Phương thức thu các quyết định giãn dân và đóng góp của nhân dân đều được nêu và họp bàn trong các cuộc họp của thôn, cụ thể: “Biên bản họp chi bộ thôn Y” ngày 05/10/2006, Ông T.V.T có ý kiến: - Xã duyệt 36 lô: dự định giá từ 17.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng; - Nếu có dự án làm mương cứng tuyến T.N – C.S thì thôn sẽ chuẩn bị kinh phí.” “Biên bản Họp dân chính Đảng” ngày 08 tháng 10 năm 2006: Thành phần gồm có: Cấp ủy; Lãnh đạo thôn; Trưởng các ban ngành đoàn thể. Ông T.V.T có ý kiến: Thông qua đất giãn dân Khu đường cây và công tác chuyển đổi thôn được tiêu chuẩn 36 lô, phân ra ba loại…Công tác chuyển đổi: Để chuyển đổi được ta phải thay đổi hệ số. Tính toán cụ thể gửi thông báo hệ số đến các hộ xin ý kiến.Tổng hợp, đánh giá mức độ để quyết định chuyển đổi (BL 1882). Cuộc họp đã kết luận: Lên phương án tính toán cụ thể gửi thông báo tới các hộ đảm bảo thời gian.” (BL 1882). Ban Chi ủy nhiệm kỳ 2005 – 2010 thôn Y, nguyên B.C.H Phụ nữ thôn Y, B.C.H Hội người cao tuổi, B.C.H Hội Nông dân, B.C.H Chi hội Cựu chiến binh đã nêu: Được sự chỉ đạo của UBND xã N của cấp Ủy chi bộ, Ban lãnh đạo thôn và sự đồng tình ủng hộ của các ban ngành đoàn thể nhân dân trong thôn. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong đó có việc vận động nhân dân các gia đình được giao đất ở của Nhà nước tự nguyện đóng góp công đức kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất trong thôn như: xây mương, cống, đường giao thông, Nhà văn hóa… nhằm phục vụ cho việc sản xuất và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trong thôn. Trong những năm 2005, 2006, 2008, 2009 là các năm thôn chúng
tôi được quyết định cấp đất ở. Mỗi khi có quyết định ban lãnh đạo thôn đã triển khai theo Nghị quyết chi bộ, họp Dân chính, họp dân thông báo mức giá của Nhà nước và quy định thống nhất mức tự nguyện đóng góp công đức của nhân dân đã được toàn thể nhân dân nhất trí và đã được thông báo tuyên truyền rộng rãi trên loa truyền thanh của thôn. (Bút lục 1987, 1989, 1991) Việc huy động các nguồn đóng góp của nhân dân trong thôn Y cũng đã được Đảng ủy xã N ghi nhận, cụ thể: “Báo cáo Kết quả kiểm tra của tổ kiểm tra Đảng ủy đối với chi ủy, cá nhân Đảng viên chi bộ Y” số 01-BC/TKT ngày 04 tháng 09 năm 2009 của Tổ kiểm tra Đảng ủy BCH Đảng bộ xã N: “…4. Việc lãnh đạo, chỉ đạo huy động, quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí do nhân dân đóng góp; Tổ chức thực hiện quyết định giao đất và sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ thông qua giao đất ở cho nhân dân. Ban chi ủy chi bộ xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của chi bộ đối với kế hoạch chỉ tiêu hàng năm do UBND xã giao do vậy đã tổ chức triển khai, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đạt hiệu quả.Trong việc thực hiện huy động các nguồn đóng góp của nhân dân trong thôn đều được chi bộ bàn bạc kỹ và triển khai đến nhân dân thông qua hội nghị dân chính ở thôn; Việc thực hiện quyết định thu hồi và giao đất ở cho nhân dân được chi bộ bàn bạc và chỉ đạo thực hiện công khai, thực hiện các bước làm việc tới từng hộ có số diện tích nằm trong quyết định thu hồi, đồng thời thực hiện nghiêm túc chính sách đền bù, hỗ trợ cho các hộ theo quy định của Nhà nước và hỗ trợ của thôn, do đó đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân nên thực hiện hoàn thành kế hoạch giao đất cho các hộ. Việc sử dụng các nguồn thu đóng góp của nhân dân; Thu theo cơ chế chuyển quyền sử dụng đất cơ bản đã được thực hiện đúng quy định, đảm bảo chi hoạt động thường xuyên trong thôn, chi hoạt động cho các đoàn thể ở thôn: Chi trả nợ đọng cũ, thanh toán ngày công cho người lao động; Chi hỗ trợ cho phong trào thiếu nhi, câu lạc bộ dưỡng sinh…” (bút lục 1813). Theo trình bày của H.D.K, nguyên là Chủ tịch UBND xã N tại Tòa cho thấy: Đây là việc thực hiện đúng quy chế dân chủ và xã đã có chủ trương ban hành thành Nghị quyết của HĐND xã về việc phát triển kinh tế xã hội trong đó có việc xã hội hóa để nhân dân đóng góp xây dựng quê hương. Tại Tòa các Đảng viên như ông Q, ông N.M.T, ông Y cũng đều khẳng định rằng để thực hiện việc này chi bộ Đảng thôn Y đều họp có “Sổ Nghị Quyết” ghi thành văn bản. Sau đó, được thông báo công khai liên tục trên loa truyền thanh thôn xã và niêm yết công khai tại các điểm dân cư, nhà văn hóa…