PDF Google Drive Downloader v1.1


Report a problem

Content text PP-Textbook-DichEV-Chapter3docx

Adapted from Ivcevic, 2007. From among the most prototypical everyday and artistic creative acts. Items 1, 3, 5, 7, and 9 are prototypical everyday creative acts. Items 2, 4, 6, 8, and 10 are artistic creative acts. According to the act frequency approach, you would be judged to be “creative” if you performed a high overall frequency of these creative acts, relative to your peer group. PHẦN 1: LĨNH VỰC THIÊN HƯỚNG TÍNH CÁCH CHƯƠNG 3 – NÉT TÍNH CÁCH VÀ SỰ PHÂN LOẠI Giả sử bạn đến một bữa tiệc với một người bạn, người giới thiệu bạn với chủ nhà, một người quen của cô ấy. Ba người nói chuyện trong khoảng 10 phút, và sau đó bạn hòa vào đám khách khứa. Sau đó, khi bạn rời khỏi bữa tiệc cùng bạn mình, cô ấy hỏi bạn nghĩ gì về chủ nhà. Khi bạn nghĩ về việc chỉ tương tác kéo dài hơn 10 phút, bạn nghĩ tới điều gì? Có lẽ bạn mô tả người chủ nhà là thân thiện (cô ấy đã cười rất nhiều), hào phóng (cô ấy bảo bạn cứ tự nhiên với những món ăn phong phú, và điềm tĩnh (cô ấy có thể đáp ứng nhiều nhu cầu của khách khứa khi họ đến và đi). Các từ này là những ví dụ về các tính từ mô tả nét tính cách / trait-descriptive adjectives – những từ mô tả nét tính cách, thuộc tính của một người mang những phẩm chất phù hợp và có thể tồn tại lâu bền theo thời gian. Cũng giống như khi bạn mô tả một cái cốc thủy tinh là giòn hoặc một chiếc xe ô tô là chắc chắn (các đặc tính lâu bền của cốc thủy tinh và xe ô tô), các tính từ mô tả nét tính cách ngụ ý về các đặc điểm nhất quán và ổn định. Trong phần lớn thập kỉ qua, các nhà tâm lý học tập trung vào việc xác định các nét cơ bản tạo nên tính cách và xác định bản
Adapted from Ivcevic, 2007. From among the most prototypical everyday and artistic creative acts. Items 1, 3, 5, 7, and 9 are prototypical everyday creative acts. Items 2, 4, 6, 8, and 10 are artistic creative acts. According to the act frequency approach, you would be judged to be “creative” if you performed a high overall frequency of these creative acts, relative to your peer group. chất và nguồn gốc của các nét tính cách đó. Hầu hết các nhà tâm lý học tính cách giả thuyết rằng các nét tính cách (còn được gọi là thiên hướng tính cách) là ổn định theo thời gian và ít nhất có tính nhất quán qua các tình huống. Ví dụ người chủ bữa tiệc như mô tả, có thể là thân thiện, hào phóng và điềm tĩnh ở cả các bữa tiệc khác sau đó – minh họa tính cách ổn định theo thời gian. Và cô ấy có thể cũng thể hiện các nét tính cách này trong các tình huống khác – có lẽ là thể hiện sự thân thiện khi cười với mọi người ở thang máy, hào phóng khi làm phúc cho những người vô gia cư, và điềm đạm, bình tĩnh lúc được gọi tên trong lớp học. Tuy nhiên, mức độ thực tế các đặc điểm tính cách thể hiện theo thời gian và sự nhất quán thông qua các tình huống đã là chủ đề của các cuộc tranh luận cũng như nghiên cứu thực nghiệm. Ba câu hỏi cơ bản hướng dẫn những nhà nghiên cứu nét tính cách đó là: Câu hỏi đầu tiên “Chúng ta nên khái niệm các nét tính cách như thế nào?” Mỗi lĩnh vực cần định nghĩa thuật ngữ chính một cách rõ ràng. Ví dụ trong sinh học, loài là một khái niệm chính, nên khái niệm loài được định nghĩa rõ ràng. (tức là một nhóm sinh vật sống có khả năng sinh sản với nhau). Trong vật lý, các khái niệm cơ bản là khối lượng, trọng lượng, lực và trọng lực được định nghĩa rõ ràng. Bởi vì các nét tính cách là các khái niệm trọng tâm trong tâm lý học tính cách, vì vậy, chúng cũng phải được tạo nên thật chính xác. Câu hỏi thứ hai là “Làm sao chúng ta xác định được nét tính cách nào là quan trọng nhất giữa hàng ngàn cách mà mỗi người khác biệt?” Mỗi cá nhân khác nhau theo nhiều góc độ bao gồm cả về nét tính cách lẫn sự lâu bền. Một số người thì cực kỳ hướng ngoại, thích những bữa tiệc ồn ào và đông đúc trong khi một số người khác lại hướng nội, thích những buổi tối yên tĩnh đọc sách. Một số người thích nhạc rock trong khi số khác thích nhạc rap. Mục tiêu quan trọng của tâm lý học tính cách là xác định những cách quan trọng nhất mà mỗi cá nhân khác biệt với nhau. Câu hỏi thứ ba là “Làm sao tạo ra một hệ thống phân loại toàn diện của nét tính cách – một hệ thống mà bao gồm trong đó tất cả các nét tính cách cơ bản?” Khi các nét tính cách quan trọng được xác định, bước tiếp theo là tạo ra một lược đồ có tổ chức – một hệ thống phân loại – trong đó tập hợp các nét tính cách riêng lẻ. Ví dụ bảng tuần hoàn các nguyên tố, không chỉ đơn thuần là một danh sách ngẫu nhiên các nguyên tố vật lý được khám phá. Mà đúng hơn, đó là một hệ thống phân loại sắp xếp các nguyên tố theo nguyên tắc nhất quán – các nguyên tố được sắp xếp
Adapted from Ivcevic, 2007. From among the most prototypical everyday and artistic creative acts. Items 1, 3, 5, 7, and 9 are prototypical everyday creative acts. Items 2, 4, 6, 8, and 10 are artistic creative acts. According to the act frequency approach, you would be judged to be “creative” if you performed a high overall frequency of these creative acts, relative to your peer group. dựa theo số nguyên tử của nó (Chỉ số proton trong hạt nhân của một nguyên tử nhất định). Trong lĩnh vực sinh học, thì có một ví dụ khác, lĩnh vực này sẽ vô vọng nếu như các nhà sinh vật học chỉ liệt kê hàng ngàn các loài tồn tại, mà không dựa trên khuôn khổ cơ bản. Do đó, các loài riêng biệt được sắp xếp thành một đơn vị phân loại – tất cả các loài thực vật, động vật, và các loài vi sinh vật được liên kết một cách có hệ thống thông qua một cây cùng gốc. Tương tự như vậy, một mục tiêu trọng tâm trong tâm lý học tính cách là tạo ra một hệ thống phân loại toàn diện của tất cả các nét tính cách quan trọng. Chương này mô tả cách các nhà tâm lý học tính cách giải quyết ba câu hỏi trọng tâm này của tâm lý học tính cách. Nét tính cách là gì? Hai sự hình thành cơ bản Khi bạn mô tả một ai đó là bốc đồng, không đáng tin và lười nhác, bạn đang đề cập đến điều gì cụ thể? Các nhà tâm lý học tính cách đưa ra sự hình thành khác nhau về ý nghĩa của nét tính cách. Một số nhà tâm lý học tính cách xem những đặc điểm này là thuộc tính nội tại (hoặc tiềm ẩn) tạo thành hành vi của con người. Các nhà tâm lý học tính cách khác không đưa ra các giả định về nhân quả mà chỉ đơn giản sử dụng các thuật ngữ nét tính cách để mô tả các khía cạnh lâu bên trong hành vi của một người. Nét tính cách là thuộc tính nhân quả nội tại Khi chúng ta nói rằng Dierdre có ham muốn vật chất, hoặc Dan có nhu cầu được khuyến khích, hoặc Dominick khao khát quyền lực, chúng ta đang đề cập đến điều gì đó bên trong mỗi người mà khiến họ hành động theo những cách cụ thể. Các nét tính cách này được cho là mang tính nội tại theo nghĩa là các cá nhân mang theo mong muốn, nhu cầu và khao khát trong mỗi tình huống (ví dụ, Alston, 1975). Hơn nữa, những mong muốn và nhu cầu này được cho là có nhân quả theo nghĩa là chúng giải thích hành vi của mỗi người sở hữu chúng. Ví dụ, ham muốn vật chất của Dierdre, có thể khiến cô dành nhiều thời gian ở trung tâm mua sắm, làm việc chăm chỉ hơn để kiếm nhiều tiền hơn, và mua thêm nhiều tài sản trong nhà. Mong muốn nội tại ảnh hưởng đến hành vi bên ngoài của cô, có lẽ khiến cô hành động theo những cách nhất định. Các nhà tâm lý học xem các nét tính cách là thiên hướng tính cách nội tại không đánh đồng với các hành vi bên ngoài được đề cập. Sự phân biệt này được giải thích dễ dàng nhất bằng ví dụ về thức ăn. Harry có thể có một mong muốn mạnh mẽ được ăn một cái bánh hamburger lớn và khoai tây chiên. Tuy nhiên, bởi vì anh đang cố giảm cân, nên anh kiềm chế thể hiện mong muốn
Adapted from Ivcevic, 2007. From among the most prototypical everyday and artistic creative acts. Items 1, 3, 5, 7, and 9 are prototypical everyday creative acts. Items 2, 4, 6, 8, and 10 are artistic creative acts. According to the act frequency approach, you would be judged to be “creative” if you performed a high overall frequency of these creative acts, relative to your peer group. bằng hành vi – anh nhìn đồ ăn một cách thèm thuồn nhưng chống lại cám dỗ ăn nó. Tương tự như vậy, Dominick có thể có một mong muốn được đảm nhiệm trong hầu hết các tình huống xã hội, ngay cả khi không phải lúc nào anh ta cũng bày tỏ mong muốn này. Ví dụ, một vài tình huống có thể đã có sẵn người lãnh đạo, như là buổi thảo luận trên lớp với giáo sư tâm lý học của anh ta. Lưu ý rằng sự hình thành này giả định rằng chúng ta có thể đo lường nhu cầu quyền lực của Dominick một cách độc lập với việc đo lường các biểu hiện hành vi thực tế của anh ta. Các ví dụ này tương tự như với một cái cốc thủy tinh, thì có đặc điểm là giòn. Ngay cả khi một cái cốc thủy tinh cụ thể không bao giờ vỡ (nghĩa là thể hiện được tính giòn), nó vẫn mang đặc điểm giòn. Nói tóm lại, các nhà tâm lý học xem các nét tính cách như là thiên hướng tính cách nội tại tin rằng các đặc điểm có thể nằm im theo nghĩa là các năng lực vẫn còn tồn tại ngay cả khi các hành vi cụ thể không thực sự thể hiện ra. Các nét tính cách – theo nghĩa là nhu cầu tồn tại, động lực, mong muốn... được cho là tồn tại ngay cả khi không có các biểu hiện hành vi có thể quan sát được. Về mặt khoa học tính hữu ích khi xem các nét tính cách là nguyên nhân của hành vi nằm trong việc loại trừ các nguyên nhân khác. Khi chúng ta nói Joan đi đến nhiều bữa tiệc bởi vì cô ấy là người hướng ngoại, chúng ta ngầm loại những lý do tiềm ẩn khác cho hành vi của cô ấy (ví dụ: cô ấy có thể đến nhiều bữa tiệc đơn giản chỉ vì bạn trai của cô ấy lôi kéo hơn là vì bản thân cô ấy là người hướng ngoại). Việc hình thành các nét tính cách như là các thuộc tính nhân quả nội tại hoàn toàn khác với sự hình thành thay thế coi các đặc điểm chỉ là những tóm tắt mô tả về hành vi thực tế. Các nét tính cách dưới dạng tóm tắt mô tả Những người ủng hộ sự hình thành thay thế này định nghĩa nét tính cách đơn giản là tóm tắt mô tả về các thuộc tính của con người; họ không giả định về nội tại hoặc quan hệ nhân quả (Hampshire, 1953; Saucier & Goldberg, 2001). Giả sử một ví dụ mà trong đó chúng ta mô tả nét tính cách ghen tuông của một người đàn ông trẻ tên George. Theo quan điểm tóm tắt mô tả, đặc điểm này chỉ đơn thuần mô tả hành vi biểu hiện của George. Ví dụ, George có thể nhìn chằm chằm vào người đàn ông nào nói chuyện với bạn gái anh ta và khăng khăng rằng cô ấy đeo nhẫn của anh ta, và yêu cầu cô ấy dành tất cả thời gian rảnh cho anh. Trong trường hợp này, nét đặc điểm ghen tuông, tóm tắt chính xác xu hướng chung trong hành vi biểu hiện của George, nhưng không có giả định nào về nguyên nhân hình thành hành vi của George.

Related document

x
Report download errors
Report content



Download file quality is faulty:
Full name:
Email:
Comment
If you encounter an error, problem, .. or have any questions during the download process, please leave a comment below. Thank you.