PDF Google Drive Downloader v1.1


Report a problem

Content text 1727778795-BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ PHÁP LÝ - VỤ ÁN ANH ĐẠT.docx


2 N.T.X (con ông N.V.T1 đã chết) đối chiếu lời xác nhận của ông C và ông K tại thời điểm cân đối giao quyền và hiện trạng thực tế hiện nay thì không có thửa đất ông N.V.T1 nằm ở giữa thửa đất của hai ông, mà thửa đất nằm ở giữa là thửa đã cân đối giao quyền cho hộ ông T.Đ2 (ông T.Đ1 thừa kế). Hơn nữa, thời điểm cân đối giao quyền thì chính ông N.V.C làm trong hợp tác xã nông nghiệp đã chỉ đất cho các hộ gia đình nhận đất, trong đó có hộ gia đình ông T.Đ2, hộ gia đình ông N.V.T1, nay ông N.V.C xác nhận đất vị trí đang tranh chấp thuộc đất hộ gia đình ông T.Đ2 thì lời xác nhận này là vững chắc và thực tế nhất. Căn cứ Thông tư 25/2014/TT-BTNMT về Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất (tại Phụ lục số 11 kèm theo). Theo đó ở Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất có quy định phải lấy chữ ký, ý kiến của người sử dụng đất, chủ quản lý đất liền kề để xác nhận ranh giới, mốc giới sử dụng đất, trong đó có nội dung là: Người sử dụng đất hoặc chủ quản lý đất liền kề ký xác nhận ranh giới , mốc giới sử dụng đất (đồng ý hoặc không đồng ý – lý do không đồng ý). Như vậy thủ tục ký ranh giới thửa đất là bắt buộc theo quy định của pháp luật, đối với những thửa đất chưa ký xác lập bản đồ ranh giới bất động sản, cụ thể là GCNQSDĐ cấp năm 1998 cho hộ gia đình ông N.V.T1 chưa có bản đồ xác định ranh giới thửa đất nên xảy ra việc lẫn lộn trong việc cấp GCNQSDĐ cho bà N.T.N1 sau này. Ngoài ra, còn một số dữ liệu có trong hồ sơ vụ án xác định thửa đất đang tranh chấp thuộc thửa đất 958 cấp cho hộ ông T.Đ2 chứ không phải thửa 958A cấp cho hộ gia đình ông N.V.T1 để thừa kế cho bà N.T.N1 như sau: Qua thông báo không thụ lý giải quyết khiếu nại số 537/TB – UBND ngày 31/3/2023 của chính UBND thị xã S cũng khẳng định là đất cân đối giao quyền cho hộ gia đình ông Đ2, tuy nhiên tại thời điểm bồi thường ông T1 là người trực tiếp canh tác, sử dụng nên đã kê khai diện tích bị ảnh hưởng và nhận tiền bồi thường chứ không phải xác định phải xác định đây là đất có nguồn gốc nhà nước cân đối giao quyền cho ông T1. Căn cứ theo báo cáo số 231/BC – UBND ngày 03 tháng 04 năm 2018 của UBND phường X có nội dung là: “thửa đất số 958, tờ bản đồ số 6, diện tích
3 855m2, loại đất ĐM, đã cân đối cấp GCNQSDĐ cho hộ ông T.Đ2 bị thu hồi một phần diện tích đất là 652,5m2 được thể hiện tại hồ sơ kỹ thuật thửa đất số 185”. Căn cứ theo biên bản kiểm tra hiện trạng ngày 22/6/2017 của VPĐKĐĐ thị xã S (kèm theo hồ sơ cấp GCNQSDĐ bà N.T.N1) tại bút lục số 90, xác định hiện trạng thuộc thửa 958A, tờ bản đồ số 6, có đoạn: “phần diện tích hiện nay sử dụng đang giảm 150m2 là do thu hồi đất 83,7m2 trên đường tuyến tránh quốc lộ 1A và đã được chi nhánh VPĐKĐĐ S xác nhận vào trang 4 giấy chứng nhận vào ngày 27/10/2016. Đồng thời, giảm diện tích thêm 66,3m2 là do bà N1 tự nguyện hiến đất làm đường”. Trong khi đó theo tờ bản đồ số 185 thì thửa đất còn lại sau thu hồi là 574,4 m2 cao gần gấp đôi so với diện tích cấp cho bà N1 là 350m2, như vậy đất ở đâu mà cấp cho bà N1 350m2 trong khi 574,4m2 thuộc thửa số 185 cấp cho hộ gia đình ông T.Đ2. Như vậy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 061671 do Sở TN và MT tỉnh P cấp ngày 05/7/2018 cho bà N.T.N1 tại thửa đất số 524, tờ bản đồ số 4 (đo đạc năm 2012) diện tích 350m2 là sai về vị trí, ranh giới thửa đất của các bất động sản liền kề hộ ông C, ông K (ông T2 quản lý sử dụng) vì lý do không có thửa đất của ông T1 nằm giữa hai thửa đất của ông C, ông K như lời trình bày nêu trên thì vị trí thửa đất này là cân đối giao quyền cho hộ ông T.Đ2. Căn cứ vào Công văn số 1858 của Sở tài nguyên và môi trường tỉnh P cung cấp đến TAND tỉnh P (tại Bút lục số 98) thì hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho bà N.T.N1 vào ngày 05/7/2018 tại thửa đất số 524, tờ bản đồ số 4 (đo đạc năm 2012) diện tích 350m2 chỉ có biên bản hiện trạng không có chữ ký giáp ranh của ông N.V.C, ông M.V.K (ông M.V.T2 đang quản lý sử dụng) là sai quy định của Thông tư số 25/2014 của bộ tài nguyên và môi trường nên quy trình cấp sổ cho bà N1 tại thửa đất nêu trên là không đúng quy định của pháp luật. Nếu thời điểm đó có ký giáp ranh thì ông C và ông K (hoặc ông T2) thì những người này sẽ không ký vì lý do không phải đất của ông T1 để lại thì làm sao hai ông ký giáp ranh cho được, vị trí đất này đã cân đối giao quyền cho hộ ông T.Đ2 vì vậy tại thời điểm đó làm đúng quy trình cũng không thể cấp GCNQSDĐ cho bà N1 được. Thực tế hiện nay gia đình bà N.T.X, N.T.N1 cũng không xác định được vị trí
4 thửa đất của mình từ trước đến nay sử dụng như thế nào, không biết nguồn gốc quyền sử dụng đất từ trước tới nay ông T1 cha bà và các bà N1, bà X cũng không biết thửa đất đang tranh chấp có nằm trong GCNQSDĐ cấp năm 1998 cho hộ gia đình ông T1 hay không, các bà ở trên đất này từ trước tới nay mà không biết vị trí thửa đất là vô lý, còn ông T.Đ1 nguyên đơn khởi kiện lúc cấp sổ năm 1998 còn nhỏ, hơn nữa ông T.Đ2 ông nội anh Đ1 không hề nói gì với ảnh Đ1, đến lúc ông T.Đ3 cha anh Đ quá trình còn sống đi khiếu nại các cấp cũng không nói gì, đến khi ông Đ3 chết vào năm 2022 mới bàn giao lại hồ sơ cho anh Đ biết việc này mới tiếp tục khiếu nại đến các cấp để xem xét, giải quyết. Căn cứ vào GCNQSDĐ cấp cho hộ gia đình ông T.Đ2 vào năm 1998 cho thửa số 958, tờ bản đồ số 6, cấp cho 04 nhân khẩu gồm có: ông T.Đ3, ông T.Đ2, bà T.T.N2, ông T.Đ1. Theo quy định của Luật Đất đai đất cấp cho hộ gia đình thì quyền lợi của các thành viên trong hộ gia đình là ngang bằng nhau, vì việc quá trình giải quyết khiếu nại không thông báo cho bà T.T.N2 (vợ ông T.Đ2) và ông T.Đ1 biết sự việc là làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên trong hộ gia đình được pháp luật bảo vệ. Nay anh T.Đ1 khiếu nại lại thì thời hiệu tính lại bắt đầu từ anh T.Đ1 cũng là hợp tình, hợp lý, đúng pháp luật, cớ sao lại cho rằng hết thời hiệu không giải quyết khiếu nại là dễ gây oan sai, làm ảnh hưởng quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tình hình hiện nay tại Thị xã S dễ xảy ra trình trạng khiếu nại, khiếu kiện kéo dài trong các vụ việc hành chính, các hành vi hành chính của Lãnh đạo UBND thị xã S dễ gây bức xúc trong người dân khi ban hành báo cáo đưa ra 02 phương án giải quyết nhưng lại không có thông báo đến người dân là giải quyết có được hay không, làm như vậy là không đúng quy định của pháp luật, chính vì vậy sự việc mới kéo dài cho đến hôm nay phải đi khởi kiện ra tòa án. Vì các lý do mà Luật sư đã trình bày nêu trên đủ cơ sở để: Hủy GCNQSDĐ cấp bà N.T.N1 vào ngày 05/7/2018 tại thửa đất số 524, tờ bản đồ số 4 (đo đạc năm 2012) diện tích 350m2 vì lý do quy trình cấp sai, thủ tục cấp bị thiếu biên bản ký giáp ranh thửa đất theo thông tư 25/2014 mà tôi đã trình bày nêu trên. Đủ cơ sở để khẳng định vị trí đất đang tranh chấp thuộc thửa số 958, tờ bản đồ số 6 cấp cho hộ gia đình ông T.Đ2, chứ không phải thửa 958A, tờ bản đồ số 6 cấp cho hộ gia đình ông N.V.T1.

Related document

x
Report download errors
Report content



Download file quality is faulty:
Full name:
Email:
Comment
If you encounter an error, problem, .. or have any questions during the download process, please leave a comment below. Thank you.