PDF Google Drive Downloader v1.1


Report a problem

Content text Giáo trình GPB một số bệnh đường ruột 190625.pdf

GIẢI PHẪU BỆNH MỘT SỐ BỆNH ĐƯỜNG RUỘT Mã bài giảng: LEC9.S2.7.MD Mục tiêu học tập: 1. Trình bày được đặc điểm bệnh học lâm sàng cơ bản của một số nhóm bệnh thường gặp ở đường ruột. 2. Trình bày được đặc điểm giải phẫu bệnh và diễn giải được sự liên hệ với lâm sàng một số bệnh thường gặp ở đường ruột. Ruột non và ruột già đóng vai trò quan trọng trong quá trình hấp thu và đào thải các chất cặn bã, độc tố ra khỏi cơ thể con người. Đường ruột cũng tham gia vào hệ thống miễn dịch nhờ vào sự có mặt của hệ vi khuẩn đường ruột và các tế bào có thẩm quyền miễn dịch xuất hiện trên thành ruột. Do ruột là nơi mà hệ miễn dịch thường xuyên tương tác với rất nhiều yếu tố kháng nguyên khác nhau...chưa kể hệ vi khuẩn đường ruột rất nhạy cảm với các tác nhân từ ngoài nên các bệnh lý viêm, nhiễm trùng đường ruột rất phổ biến. Ngoài ra, ruột cũng là cơ quan rất nhạy cảm với các tổn thương thiếu máu, chấn thương hoặc các tân sản và nhiều bệnh lý khác. I. Một số nhóm bệnh lý thường gặp ở đường ruột 1. Nhóm bệnh tắc ruột Tắc ruột là tình trạng ngừng trệ sự lưu thông bình thường của các thành phần trong lòng ruột. Tắc ruột có thể xảy ra ở bất cứ vị trí nào nhưng hay liên quan đến ruột non do lòng hẹp; tắc hoàn toàn hoặc bán phần; diễn ra cấp tính hoặc mạn tính. Theo cơ chế gây tắc, có thể chia ra 2 nhóm chính đó là tắc ruột cơ học (thường do bít tắc hoặc hẹp lòng ruột) và tắc ruột cơ năng (thường do bất thường nhu động ruột). Nguyên nhân gây tắc thường gặp nhất bao gồm thoát vị, dính ruột, lồng ruột, xoắn ruột (Hình 1); còn lại là do u bướu, nhồi máu và các nguyên nhân khác. Bệnh cảnh lâm sàng chung là hội chứng tắc ruột. Phẫu thuật thường là phương pháp điều trị hàng đầu ở những trường hợp tắc ruột cơ học hoặc có nhồi máu ruột.

lâm sàng điển hình ở trẻ sơ sinh là không đại tiện được phân xu trong 48 giờ sau sinh, trướng bụng, nôn, và khi được kích thích hậu môn sẽ ra rất nhiều phân; tình trạng rối loạn điện giải, nhiễm trùng, nhiễm độc, hoại tử ruột gặp ở trường hợp muộn. Triệu chứng ở trẻ lớn hơn thường là táo bón mạn tính, chán ăn, nôn, trướng bụng, chậm lớn. Hình ảnh vô hạch thần kinh trong các đám rối thần kinh là tiêu chuẩn vàng trên vi thể trong chẩn đoán bệnh. 2. Nhóm bệnh bất thường mạch máu đường ruột Phần lớn ruột được cấp máu bởi động mạch thân tạng, động mạch mạc treo tràng trên và động mạch mạc treo tràng dưới. Các mạch lớn này trên con đường tiếp cận thành ruột đều chia nhiều nhánh để tạo mạng lưới cấp máu dày đặc cho ruột do đó trừ khi có tổn thương vào các mạch lớn, tổn thương ruột do thiếu máu thường tiến triển khá chậm chạp. Bệnh ruột thiếu máu Tổn thương ruột do thiếu máu có thể thay đổi từ viêm thiểu dưỡng niêm mạc tới nhồi máu, hoại tử xuyên thành trên toàn bộ các tầng mô học của thành ruột. Nói chung, nhồi máu niêm mạc ruột có thể do giảm tưới máu cấp tính hoặc mạn tính còn nhồi máu xuyên thành ruột thường do tắc mạch cấp tính. Nguyên nhân gây bệnh thường tới từ sự tắc, hẹp động mạch do mảng xơ vữa, phình mạch; tắc tĩnh mạch mạc treo ruột do huyết khối; tổn thương hệ thống như suy tim, sốc, tình trạng tăng đông, viêm mạch hoặc khi sử dụng các thuốc gây co mạch... Ngoài ra, một số bệnh như u bướu, chấn thương có thể gây chèn ép, tổn thương trực tiếp vào thành mạch. Mức độ giảm dòng chảy tưới máu, thời gian thiếu máu và loại mạch máu bị ảnh hưởng là các yếu tố chính quyết định mức độ nặng của tổn thương ruột. Triệu chứng bệnh thường đa dạng và dễ nhầm lẫn với các bệnh ruột khác nên có thể dẫn tới chẩn đoán và xử trí muộn. Tổn thương ruột thường là hậu quả phối hợp của sự thiếu oxy và sự tái tưới máu nếu có sau đó, liên quan đến sự xuất hiện của các gốc tự do, xâm nhập bạch cầu đa nhân trung tính, các chất trung gian viêm như bổ thể và cytokin; trong đó một điều khá bất ngờ rằng chính tình trạng tái tưới máu lại đem lại nhiều tổn hại cho ruột hơn còn tình trạng thiếu oxy (các tế bào biểu mô của niêm mạc ruột có thể chống chịu khá tốt trước tình trạng thiếu oxy lúc mới thiếu máu). Yếu tố giải phẫu làm tăng nguy cơ thiếu máu ruột đó là sự kém tưới máu của các vị trí ruột tương ứng với phần tận của động mạch, bao gồm đại tràng góc lách, đại tràng sigma, trực tràng. Ngoài ra, sự quay vòng của các vi mạch khi tới bề mặt của lớp biểu mô niêm mạc ruột cũng làm cho phần này của niêm mạc ruột nhạy cảm hơn với tình trạng thiếu máu (Hình 2).

Related document

x
Report download errors
Report content



Download file quality is faulty:
Full name:
Email:
Comment
If you encounter an error, problem, .. or have any questions during the download process, please leave a comment below. Thank you.