Content text ĐỀ SỐ 11.docx
ĐỀ SỐ 11 I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm) Đọc văn bản sau: NỖI BUỒN LÀNG CHIỀU (Trích) (Tiêu Dao – Bảo Anh) Từng suy rồi thịnh, từng có cả trăm hộ làm nghề nhưng bây giờ khung dệt bụi phủ, tay người chênh chao. Nỗi niềm của làng chiếu chẳng mấy người thấu tỏ khi chỉ duy nhất một bà lão còn dệt chiếu, nhưng cũng đầy chông chênh. Gió buồn lay đồng cói Làng Cẩm Nê (xã Hòa Tiến, Hoa Vang, Đà Nẵng) giờ đã khác khi đời sống người dân khấm khá hơn rất nhiều, bao quanh vẫn là đồng lúa đang chín vàng và chon von những ngôi nhà 2-3 tầng rợp bóng cây xanh. Làng từng nổi tiếng với nghề dệt chiếu, có những chiếc chiếu đặc biệt dệt để tiến vua. Người làng trong câu chuyện mỗi tối, vẫn cứ nhớ về cha ông mình với câu chuyện về một chiếc chiếu hoa được tiến kinh ngày trước. Chiếu rộng 2,5 mét và dài tới 25 mét, được những người dệt chiếu lão luyện làm trong gần một tháng. Nhờ chiếc chiếu ấy, người làng đã được ban thưởng trọng hậu và sau kỳ tích đó, tiếng tăm chiếu Cẩm Nê đã bay đi khắp nước. […] Nhưng làng chiếu bây giờ dường như chỉ còn cái tên, bởi chẳng còn những lách cách thoi đưa, những sợi cói rực rỡ trong nắng, những bãi đay bãi lác rì rào trong gió, tất cả chỉ là một thời quá vãng. Những cơn lốc của thị trường đã cuốn làng chiếu lao đao. Nào là những sản phẩm đệm, rồi chiếu nhựa, chiếu công nghiệp, thảm các loại với giá rẻ đã đánh sập cái nghề truyền thống mấy trăm năm của làng. Quá trưa, bà Dương Thị Thông (65 tuổi) mới tất tả đạp xe về. Bà là con gái cụ Ngô Thị Thân - một nghệ nhân dệt chiếu hơn 70 năm làm nghề của làng. Bà Thông, con gái cụ, cũng là một nghệ nhân, nhưng lại là người cuối cùng còn dệt chiếu ở làng. Trước cửa, tấm biển giới thiệu sản phẩm làng nghề chiếu Cẩm Nê của bà đã bạc như cái nghề của cha ông đang lay lắt ở chính nơi này. Giờ bà Thông chỉ thi thoảng mới dệt chiếu, khi có khách đặt hàng, hay khi có đoàn du lịch tới thăm và chỉ những dịp cuối năm, khi việc nông đã vãn, việc làm thuê cũng vơi, còn lại ngày ngày bà đi phụ hồ, đi nấu đám tiệc, hay làm các công việc lặt vặt khác. Bởi, nghề gia truyền giờ không còn nuôi sống nổi thân mình, bỏ thì cũng tiếc lắm chứ! Cái nghề dệt chiếu như máu như thịt, là nghề gia truyền khi ông bà nội và cha mẹ bà cũng là những nghệ nhân dệt chiếu trong làng. Tuy trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, gia đình bà vẫn cố gắng giữ cho được nghề. Ngay từ năm 10 tuổi, bà Thông đã được cha mẹ truyền lại và cho đến nay, bà đã gắn bó với nghề hơn 55 năm. Trong mạch ngầm trí nhớ, bà Thông vẫn mường tượng ra cảnh người làng từ già đến trẻ, người trồng lác, người chăm đay, người xe sợi, người nhuộm cói... tiếng gọi tiếng cười, tiếng thoi tiếng cửu rộn ràng với cả tiếng mua bán giăng kín cả làng chiếu này. […] Công làm một chiếc chiếu không hề nhỏ, từ việc gặt lác, chặt đay về đêm phơi, rồi phẩm nấu lên và nhúng sợi lác vào, nhúng từng nắm một và mang phơi nắng. […] Mỗi khung dệt có hai người tham gia. Trong đó, một người luồn cói và người kia dùng go dệt cói vào đay cho chắc chắn. Chiếu dệt xong mang phơi khắp sân, rồi cuối cùng ghim các đầu dây đay để cho hai đầu chiếu khỏi bung ra. […] Mỗi đôi chiếu đặt làm đặc biệt thì giá 700.000-800.000 đồng, tương đương với chiếu trúc làm máy. Sau khi trừ tiền thuê nhân công và nguyên vật liệu thì gần như không còn một đồng lời. Do không có nguồn nguyên liệu tại chỗ, người làng chiếu phải đặt mua sợi cói từ địa phương khác, lấy công phơi, nhuộm cói, dệt chiếu làm lời. Mỗi chiếc chiếu thủ công thông thường được bán với
Sau những người đàn bà gánh nước sông và lũ trẻ cởi truồng Chạy theo mẹ và lớn lên Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến Con trai lại vác cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ Và cá thiêng lại quay mặt khóc Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi. (Nguyễn Quang Thiều, Những người đàn bà gánh nước sông, NXB Văn học, 1995) Câu 2 (4,0 điểm) Có ý kiến cho rằng: Trong thế giới hội nhập, nếu có thể du học ở nước ngoài, người trẻ sẽ có cơ hội phát triển tương lai tốt hơn. Anh/ Chị có đồng tình với ý kiến trên không? Hãy bày tỏ ý kiến của anh/ chị trong bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ).