Content text 02. Đề giải mẫu tham khảo
- Từ thực tế :Vấn đề nghiên cứu có thể được nhận dạng qua hàng loạt những vướng mắc ,những mâu thuẫn phát sinh trong các hoạt động của con người nhằm đạt được những mục đích, những mong muốn hay ước mơ ,...) Các vấn đề nảy sinh trong thực tế có thể nhận biết thông qua hoạt động của con người, qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các cuộc hội thảo, trao đổi với những người đang tiến hành các hoạt động thực tế. Tiếp đến nhà khoa học tiến hành tổng kết và nghiên cứu thực tế, từ đó phát hiện những vấn đề nghiên cứu phù hợp - Từ lý thuyết: Là phải xác định được những gì những nghiên cứu trước đã làm, những gì chưa làm và những gì chưa được làm hoàn chỉnh, tiến hành tổng kết lý thuyết và nghiên cứu đã có sẽ giúp nhận dạng được vấn đề nghiên cứu. - Những vấn đề nghiên cứu được nhận dạng từ lý thuyết hoặc thực tế không bao giờ tách biệt nhau .Vấn đề nghiên cứu xuất phát từ thực tế phải gắn với cơ sở lý thuyết và ngược lại, vấn đề nghiên cứu xuất phát từ lý thuyết phải gắn với lợi ích mà nó mang lại cho các hoạt động trong thực tế - Xác định vấn đề nghiên cứu được tiến hành sau khi đã nhận dạng được vấn đề nghiên cứu .Vấn đề nghiên cứu thường được chia thành 2 dạng chính :
○ Dạng nguyên thủy (Original research) ○ Dạng nghiên cứu lặp(replication research) còn phân thành 4 loại: + Lặp 0: nghiên cứu sử dụng lại thiết kế, mô hình nghiên cứu và cả mẫu hay sử dụng hoàn toàn giống nghiên cứu đã có . + Lặp 1: sử dụng lại thiết kế, mô hình nghiên cứu ,...nhưng gia tăng mức độ tổng quát ở một phạm vi, nền văn hóa, đối tượng nghiên cứu khác + Lặp 2: thực hiện giống nghiên cứu đã có nhưng ở nhiều ngữ cảnh khác nhau + Lặp 3 : nghiên cứu lặp lại nghiên cứu đã có những điều chỉnh bổ sung hoàn thiện hơn. - Khi xác định vấn đề nghiên cứu hay đề tài nghiên cứu nhà khoa học cần phải cân nhắc một số yếu tố nguồn lực như sau : Sự hiểu biết ,vốn tri thức, năng lực trí tuệ, lòng say mê ,....của người nghiên cứu đối với vấn đề đặt ra. Nguồn thông tin, tư liệu, địa bàn nghiên cứu, điều kiện thực nghiệm, các hướng khai thác mới về thông tin ,nhân lực, tài lực, vật lực có triển vọng . Các điều kiện về tổ chức ,kinh phí và thực quản lý lãnh đạo của các cơ quan quản lý nghiên cứu khoa học. ⇒ Sau khi xác định được vấn đề nghiên cứu trên cơ sở đáp ứng được các yêu cầu, điều kiện và dạng thức nghiên cứu khoa học nêu trên, nhà nghiên cứu sẽ tiến hành nêu vấn đề nghiên cứu thông qua tên các đề tài hoặc dự án nghiên cứu khoa học( tên vấn đề nghiên cứu). Tên của vấn đề nghiên cứu phải ngắn gọn, súc tích và rõ ràng chứa đựng được các thông tin rất cơ bản về vấn đề nghiên cứu như mục đích nghiên cứu ,đối tượng nghiên cứu ,phạm vi nghiên cứu,.... - Một vấn đề nghiên cứu cụ thể mà em biết như sau: “Nghiên cứu về tình trang phạm tội ở tuổi vị thành niên” Với đề tài này thì vấn đề nghiên cứu cần khám phá: đâu là nhân tố gây ra tình trạng phạm tội ở tuổi vị thành niên, và cần phải làm gì để ngăn chặn tình trạng này.
Muốn nhận dạng được vấn đề nghiên cứu cần trải qua những giai đoạn như sau: - Từ lý thuyết:Xem qua các bài nghiên cứu trước thì các bài nghiên cứu chỉ xoay quanh những vấn đề như là nguyên nhân và cách khắc phục. Tuy đây là hai nhiệm vụ chính của vấn đề nghiên cứu nhưng lại chưa đi sâu vào được các nhân tố tác động cụ thể để đưa các biện pháp khắc phục cụ thể . - Từ thực tế:Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, internet, nhìn thấy trực tiếp các hành động diễn ra tình trang phạm tội ở tuổi vị thành niên, từ đó nảy sinh ra các vướng mắc:Tại sao với lứa tuổi như thế lại có thể giết người, trộm cắp tài sản,... một cách không thương tiếc, chúng ra tay với nhau một cách tàn bạo. - Từ đó tổng kết lý thuyết(thực tế) như sau:Vấn đề nghiên cứu là tìm hiểu xem những nhân tố nào ảnh hưởng đến tình trạng phạm tội ở tuổi vị thành niên và nêu được cách khắc phục . - Nghiên cứu lý thuyết(thực tế): Hiện nay, tình trạng phạm tội ở trẻ vị thành viên có xu hướng gia tăng cụ thể như sau:Theo thống kê gần nhất của Bộ Công an, tỷ lệ gây án ở tuổi vị thành niên trên địa bàn cả nước là 5,2% đối với người dưới 14 tuổi, 24,5% đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và 70,3% đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi. Từ đó có thể thấy, tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật do trẻ vị thành niên gây ra tiếp tục diễn biến phức tạp với tính chất, mức độ phạm tội nguy hiểm hơn, gây hậu quả nghiêm trọng. Vậy vấn đề nghiên cứu là cần làm rõ tại sao tình trạng phạm tội ở tuổi vị thành niên lại có xu hướng gia tăng như vậy. + Một là, từ phía gia đình: Gia đình là yếu tố có hảnh hưởng lớn nhất đến việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân trong thời kì thơ ấu. Bởi, kể từ khi mới sinh ra, gia đình là môi trường đầu tiên mà những đứa trẻ sinh sống, nhận thức của chúng bước đầu hình thành từ những hành vi của những người xung quanh, bao gồm cả những hành vi tốt hay không tốt, phần lớn các đối tượng vi phạm pháp luật rơi vào hoàn cảnh gia đình khó khăn , bố mẹ là đối tượng hình sự, rượu chè, cờ bạc, cha mẹ ly hôn, ly thân, trong gia đình thường xảy ra bạo lực hoặc việc quản lý, giáo dục trẻ chưa phù hợp, thiếu quan tâm đến trẻ, để trẻ em lang thang kiếm sống hoặc nuông chiều quá mức, để trẻ tiếp xúc với những thành phần xấu của xã hội, bị kẻ xấu lôi kéo vào con đường phạm pháp.... Khi những bậc làm cha, làm mẹ nhận ra mình quá thờ ơ trong việc chăm sóc, giáo dục con em mình thì hậu quả đau lòng cũng đã xảy ra