PDF Google Drive Downloader v1.1


Report a problem

Content text 1728296111-12_Luận cứ bảo vệ khiếu kiện về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.docx


Ngày 11/9/2012 UBND quận L ban hành Quyết định số 3732/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại lần đầu của bà L.T.N1 với nội dung “không chấp nhận yêu cầu giao đất tái định cư”. Sau khi nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của UBND quận L, bà N1 tiếp tục khiếu nại lên UBND thành phố H và ngày 4/4/2013 bà N1 tiến hành gửi Đơn khởi kiện vụ án hành chính đối với Quyết định 1365/QĐ-UBND ngày 11/09/2006 phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của UBND quận L ra Tòa án Nhân dân quận L. Đến ngày 15/4/2013 UBND thành phố H ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 2605 giữ nguyên quyết định số 1365 của UBND quận Lon Biên. Căn cứ điều 104 Luật tố tụng hành chính (nay là Điều 116 Luật Tố tụng hành chính) quy định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là một năm kể từ ngày bà N1 cho rằng quyết định hành chính xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngày 11/9/2012 UBND quận Lòng Biên ban hành quyết định giải quyết khiếu nại không chấp nhận yêu cầu xin giao đất tái định cư của bà N1, ngày 4/4/2013 bà N1 tiến hành khởi kiện vụ án hành chính nên đơn khởi kiện vụ án hành chính của bà N1 được xác định trong thời hạn luật định. VỀ NỘI DUNG: -Xác định yêu cầu khởi kiện của bà N1: Vì yêu cầu cụ thể của bà N1 chỉ khiếu nại do trong Quyết định 1365 ngày 11/9/206 của UBND quận L phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi 93,81m2 đất thổ cư của bà N1 không có hạng mục giao đất tái định cư, nên bà N1 chỉ khiếu nại về nội dung này, chứ không khiếu nại đối với các hạng mục khác như giá đất bồi thường, các khoản tiền hỗ trợ nêu trong phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết (tức là yêu cầu khởi kiện đối với 1 phần của Quyết định 1365). Căn cứ để chứng minh yêu cầu kiện của bà N1 là hợp pháp: Dự án xây dựng cầu V là dự án lớn có liên quan đến việc thu hồi đất của hàng ngàn hộ dân thuộc nhiều quận trong thành phố H nên dự án này cũng có bố trí khu tái định cư ngay tại địa bàn phường L cho những người bị thu hồi đất. Hộ gia đình bà N1 là 1 trong số ít của các hộ gia đình có đất ở bị thu hồi để thực hiện dự án Cầu V không được giao đất tái định cư. Bà N1 khiếu nại UBND quận L yêu cầu giao đất tái định cư (có thu tiền) là có căn cứ pháp lý: - Căn cứ khoản 2 Điều 34 Nghị định 197/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định về Bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất như sau: “Ưu tiên tái định cư tại chỗ cho người bị thu hồi đất tại nơi có dự án tái định

(ii) Còn theo Bản sao Phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng cầu V tại phường L, quận L cho chủ hộ L.T.N1 lập ngày 1/12/2005 có chữ ký của hai cơ quan: UBND phường L và Ban quản lý dự án hạ tầng T2 thể hiện lý do không giao đất tái định cư cho bà N1 là: “ Gộp phương án của chồng là T.N.C”. Việc gộp phương án không có căn cứ pháp lý (điều luật cụ thể) thể hiện tính không hợp pháp của đối tượng hành chính bị khởi kiện. Mặt khác việc xác định bà N1 và ông C là vợ chồng cũng là không đúng vì hai ông bà không đăng ký kết hôn. Theo quy định tại khoản 1 điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về đăng ký kết hôn: “ Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn). Do hai ông bà không đăng ký kết hôn nên không có hồ sơ lưu về việc đăng ký kết hôn tại UBND phường L. Ngày 11/7/2013 tại đơn cùa bà N1 UBND phường L đã xác nhận: “Qua kiểm tra hồ sơ lưu trữ tại UBND phường hiện không còn hồ sơ sổ sách lưu về trường hợp kết hôn giữa ông T.N.C và bà L.T.N1”. Việc phường không có đăng ký kết hôn của ông C bà N1 phù hợp với lời khai của bà N1 và ông C là hai người không có quan hệ vợ chồng, không đăng ký kết hôn. Tại Đơn trình bày ngày 11/7/2013 của ông C có xác nhận của cụ T.V.T1 và L.V.Đ là nội tộc của ông C và bà N1 và tổ trưởng tổ dân phố về việc hai người không có sống có quan hệ vợ chồng trước năm 1975 do ông C đi bộ đội, sau 1975 không có sống chung, không có tài sản chung, không đăng ký kết hôn. Bà N1 và ông C có 3 người con chung là: T.T.T.A sinh năm 1968, T.N.Đ.K sinh năm 1971, T.N.T2 sinh năm 1975. Cả 3 người con chung đều sinh trước thời điểm ngày 3/1/1987 –ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực. Tuy có con chung nhưng bà N1 và ông C không có quan hệ vợ chồng thể hiện ở việc: không ăn, ở chung (bà N1 ở tại nhà đất tại thửa 203 tờ bản đồ 07 có nguồn gốc của bố mẹ bà N1 để lại), còn ông C sau năm 1975 mới đi bộ đội về ở tại nhà đất của cụ T.T.N2 –là bà cô ruột không chồng không con, tại thửa 171 tờ bản đồ 07), không có tài sản chung (thể hiện bà N1 là chủ hộ sử dụng đất thửa 203 được UBND huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1993 còn ông C được UBND huyện G cấp giấy chứng nhận thửa đất 171 vào năm 2003) và giữa hai người không thỏa thuận về xác định hai thửa đất này là tài sản chung. (iii) Căn cứ Quyết định số 3732/QĐ-UBND ngày 11/9/2012 của UBND quận L về việc giải quyết đơn khiếu nại lần đầu của bà L.T.N1 có nội dung: “Việc phê duyệt phương án chi tiết bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đối với hộ ông T.N.C vợ là bà L.T.N1 là đúng quy định tại Nghị định số 197/NĐ-CP ngày 03/12/2004 và Quyết định số 26/QĐ-UBND ngày 18/2/2005 của UBND thành phố H”.

Related document

x
Report download errors
Report content



Download file quality is faulty:
Full name:
Email:
Comment
If you encounter an error, problem, .. or have any questions during the download process, please leave a comment below. Thank you.